1. Dầu tại bãi chiến trường, Thắng ngàn ngàn quân địch, Tự thắng mình tốt hơn, Thật chiến thắng tối thượng. ~ PC103, HT Thích Minh Châu dịch Việt
2. Khi cần, không nỗ lực, Tuy trẻ mạnh nhưng lười, Chí nhu nhược, biếng nhác, Với trí tuệ thụ động, Sao tìm được chánh đạo? ~PC280
3. Lời nói được thận trọng, Tâm tư khéo hộ phòng, Thân chớ làm điều ác, Hãy giữ ba nghiệp tịnh, Chứng đạo Thánh nhân dạy. ~PC281
4. Tu thiền, trí tuệ sanh, Bỏ thiền, trí tuệ diệt; Biết con đường hai ngã, Đưa đến hữu, phi hữu. Hãy tự mình nỗ lực, Khiến trí tuệ tăng trưởng. ~PC282
5. Việc đáng làm, không làm. Không đáng làm, lại làm. Người ngạo mạn, phóng dật. Lậu hoặc ắt tăng trưởng. ~PC192
6. Người siêng năng cần mẫn, Thường thường quán thân niệm. Không làm việc không đáng. Gắng làm việc đáng làm. Người tu niệm giác tỉnh, Lậu hoặc được tiêu trừ. ~PC293
7. Đệ tử Gotama, Luôn luôn tự tỉnh giác. Vô luận, ngày hay đêm. Thường tưởng niệm Phật Đà. ~PC296
8. Đệ tử Gotama, Luôn luôn tự tỉnh giác. Vô luận ngày hay đêm. Thường tưởng niệm Chánh pháp. ~PC297
9. Đệ tử Gotama, Luôn luôn tự tỉnh giác, Vô luận ngày hay đêm, Thường tưởng niệm Tăng già. ~PC298
10. Đệ tử Gotama, Luôn luôn tự tỉnh giác, Vô luận ngày hay đêm, Thường tưởng niệm sắc thân. ~PC299
11. Đệ tử Gotama, Luôn luôn tự tỉnh giác, Vô luận ngày hay đêm, Ý vui niềm bất hại. ~PC300
12. Đệ tử Gotama, Luôn luôn tự tỉnh giác, Vô luận ngày hay đêm, Ý vui tu thiền quán. ~PC301
13. Ác hạnh không nên làm, Làm xong chịu khổ lụy; Thiện hạnh, ắt nên làm. Làm xong, không ăn năn. ~PC314
14. Có lỗi, biết có lỗi. Không lỗi, biết là không. Do chấp nhận chánh kiến, Chúng sanh đi cõi lành. ~PC319
15. Vui thay, bạn lúc cần! Vui thay, sống biết đủ! Vui thay, chết có đức! Vui thay, mọi khổ đoạn! . ~PC331
16. Vui thay, hiếu kính mẹ! Vui thay, hiếu kính cha! Vui thay, kính Sa môn! Vui thay, kính Hiền thánh! . ~PC332
17. Vui thay, già có giới! Vui thay, tín an trú! Vui thay, được trí tuệ! Vui thay, ác không làm! . ~PC333
18. Ai sống trong đời này, Ái dục được hàng phục, Sầu rơi khỏi người ấy, Như giọt nước lá sen. ~PC336
19. Người đắm say ái dục, Tự lao mình xuống dòng, Như nhện sa lưới dệt; Người trí cắt trừ nó, Bỏ mọi khổ không màng. ~PC347
20. Pháp thí, thắng mọi thí! Pháp vị, thắng mọi vị! Pháp hỷ, thắng mọi hỷ! Ái diệt, thắng mọi khổ! . ~PC354
21. Cỏ làm hại ruộng vườn, Tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, Do vậy được quả lớn. ~PC356
22. Cỏ làm hại ruộng vườn. Sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân. Do vậy được quả lớn. ~PC357
23. Cỏ làm hại ruộng vườn. Si làm hại người đời. Bố thí người ly si. Do vậy được quả lớn. ~PC358
24. Cỏ làm hại ruộng vườn. Dục làm hại người đời. Bố thí người ly dục. Do vậy, được quả lớn. ~PC359
25. Không trí tuệ, không thiền. Không thiền, không trí tuệ. Người có thiền, có tuệ. Nhất định gần Niết bàn. ~PC372
26. Mặt trời sáng ban ngày. Mặt trăng sáng ban đêm. Khí giới sáng Sát lỵ. Thiền định sáng Phạm chí. Còn hào quang đức Phật, Chói sáng cả ngày đêm. ~PC387
27. Ý dẫn đầu các pháp. Ý làm chủ ý tạo. Nếu với ý ô nhiễm. Nói lên hay hành động. Khổ não bước theo sau. Như xe, chân vật kéo. ~PC001
28. Ý dẫn đầu các pháp. Ý làm chủ ý tạo. Nếu với ý thanh tịnh. Nói lên hay hành động. An lạc bước theo sau. Như bóng không rời hình. ~PC002
29. Ai sống quán bất tịnh, Khéo hộ trì các căn. Ăn uống có tiết độ, Có lòng tin, tinh cần. Ma không uy hiếp được. Như núi đá, trước gió. ~PC008
30. Như mái nhà vụng lợp. Mưa liền xâm nhập vào. Cũng vậy tâm không tu. Tham dục liền xâm nhập. ~PC013
31. Như ngôi nhà khéo lợp. Mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy, tâm khéo tu. Tham dục không xâm nhập. ~PC014
32. Nay sầu, đời sau sầu. Kẻ ác, hai đời sầu. Nó sầu, nó ưu não. Thấy nghiệp uế mình làm. ~PC015
33. Nay vui, đời sau vui. Làm phước, hai đời vui. Nó vui, nó an vui. Thấy nghiệp tịnh mình làm. ~PC016
34. Nay sướng, đời sau sướng. Làm phước, hai đời sướng. Nó sướng: “Ta làm thiện”. Sanh cõi lành, sướng hơn. ~PC018
35. Tinh cần giữa phóng dật. Tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi. Bỏ sau con ngựa hèn. ~PC029
36. Đế Thích không phóng dật. Đạt ngôi vị Thiên chủ. Không phóng dật, được khen. Phóng dật, thường bị trách. ~PC030
37. Ai tâm không an trú. Không biết chân diệu pháp. Tịnh tín bị rúng động. Trí tuệ không viên thành. ~PC038
38. Không bao lâu thân này. Sẽ nằm dài trên đất. Bị vất bỏ vô thức. Như khúc cây vô dụng. ~PC041
39. Điều mẹ, cha, bà con. Không có thể làm được. Tâm hướng chánh làm được. Làm được, tốt đẹp hơn . ~PC043
40. Biết thân như bọt nước. Ngộ thân là như huyễn. Bẻ tên hoa của ma. Vượt tầm mắt thần chết. ~PC046
41. Tất cả tài bửu và mạng sống. Phật nói hai thứ đều vô thường. ~Kinh Đại Bảo Tích
42. Không nên nhìn lỗi người. Người làm hay không làm. Nên nhìn tự chính mình. Có làm hay không làm. ~PC050
43. Như bông hoa tươi đẹp. Có sắc nhưng không hương. Cũng vậy lời khéo nói. Không làm, không kết quả. ~PC051
44. Như bông hoa tươi đẹp. Có sắc lại thêm hương. Cũng vậy lời khéo nói. Có làm, có kết quả. ~PC052
45. Như từ một đống hoa. Nhiều tràng hoa được làm. Cũng vậy, thân sanh tử. Làm được nhiều thiện sự. ~PC053
46. Hương các loại hoa thơm. Không ngược bay chiều gió. Nhưng hương người đức hạnh. Ngược gió khắp tung bay. Chỉ có bậc chân nhân. Tỏa khắp mọi phương trời. ~PC054
47. Hoa chiên đàn, già la. Hoa sen, hoa vũ quý. Giữa những hương hoa ấy. Giới hương là vô thượng. ~PC055
48. Ít giá trị hương này. Hương già la, chiên đàn. Chỉ hương người đức hạnh. Tối thượng tỏa Thiên giới. ~PC056
49. Con tôi, tài sản tôi. Người ngu sanh ưu não. Tự ta, ta không có. Con đâu, tài sản đâu? . ~PC062
50. Người trí, dầu một khắc. Thân cận người có trí. Biết ngay chân diệu pháp. Như lưỡi với vị canh. ~PC065
51. Người ngu si thiếu trí. Tự ngã thành kẻ thù. Làm các nghiệp không thiện. Phải chịu quả đắng cay. ~PC066
52. Chớ thân với bạn ác. Chớ thân kẻ tiểu nhân. Hãy thân người bạn lành. Hãy thân bậc thượng nhân. ~PC078
53. Pháp hỷ đem an lạc. Với tâm tư thuần tịnh. Người trí thường hoan hỷ. Với pháp bậc Thánh thuyết. ~PC079
54. Như tảng đá kiên cố. Không gió nào lay động. Cũng vậy giữa khen chê. Người trí không dao động. ~PC081
55. Như hồ nước sâu thẳm. Trong sáng không khuấy đục. Cũng vậy, nghe chánh pháp. Người trí hưởng tịnh lạc. ~PC082
56. Ít người giữa nhân loại. Đến được bờ bên kia. Còn số người còn lại. Xuôi ngược chạy bờ này. ~PC085
57. Những ai hành trì pháp. Theo chánh pháp khéo dạy. Sẽ đến bờ bên kia. Vượt ma lực khó thoát. ~PC086
58. Ai nhiếp phục các căn. Như đánh xe điều ngự. Mạn trừ, lậu hoặc dứt. Người vậy, chư Thiên mến. ~PC094
59. Làng mạc hay rừng núi. Thung lũng hay đồi cao. La hán trú nơi nào. Đất ấy thật khả ái. ~PC098
60. Tinh cần tiêu ái dục (nguyên nhân của khổ đau), Là tinh tấn hợp lý, Trong pháp Phật nhiệm màu. ~Kinh Trung Bộ
61. Khi rõ biết năm uẩn; Khởi, diệt, và vị ngọt. Cùng nguy hiểm của chúng. Nên vô chấp, xuất ly. ~ Kinh Trung Bộ
62. Những thiện gia nam tử. Vì lòng tin xuất gia. Sống chú tâm tỉnh giác. Sẽ gần đức Thích Ca. ~Kinh Trung Bộ
63. Nói dối, ác, ly gián. Hai lưỡi và phù phiếm. Sát sinh, trộm, tà dâm. Là nói làm bất chính. ~ Kinh Trung Bộ
64. Suy tư cùng toan tính. Đều tự hại, hại người. Hoặc hại đến cả hai. Là tư duy bất chính. ~ Kinh Trung Bộ
65. Nghĩ chính, không tự hại. Hoặc hại đến mình, người. Nói chính: Không hai lưỡi. Lời dối, thô, phù phiếm . ~Kinh Trung Bộ
66. Chính kiến tin nhân quả. Có cha mẹ, thánh nhân. Sự bố thí chính chân: Tự tay cho vật cần. ~Kinh Trung Bộ
67. Một con người chân chính. Đầy đủ pháp chính chân. Nghĩ, nói, làm đều tốt. Mạng chung sinh cõi lành. ~Kinh Trung Bộ
68. Đối với năm thủ uẩn. Thấy vô thường biến hoại. Tôi đoạn trừ cố chấp. Tâm giải thoát não phiền. ~ Kinh Trung Bộ
69. Thân hành không nên làm. Là giết, trộm, tà dâm. Khẩu hành dối, hai lưỡi. Ác khẩu, lời phù phiếm. Ý hành tham sân hại. Tà kiến bác nhân quả. Từ bỏ các sự ấy. Là pháp nên hành trì. ~ Kinh Trung Bộ
70. Thiện xảo về duyên khởi: Đây có tức kia có. Đây sinh thì kia sinh. Đây không thì kia không. Đây diệt kia cũng diệt. . ~Kinh Trung Bộ
71. Từ bỏ sát, đạo, dâm. Là chính nghiệp hữu lậu. Sẽ được hưởng phước báo. ~Kinh Trung Bộ
72. Không một sắc pháp nào. Bị vô thường biến hoại. Mà không gây sầu khổ. Cho người ham thích nó. ~Kinh Trung Bộ
73. Giao thiệp khéo thân thiện. Cử chỉ mực đoan trang. Do vậy, hưởng vui nhiều. Sẽ dứt mọi khổ đau. ~PC376
74. Tất cả hành vô thường. Với tuệ quán thấy vậy. Đau khổ được nhàm chán. Chính con đường thanh tịnh. ~PC277
75. Hận thù diệt hận thù. Không đời nào diệt được. Từ bi diệt hận thù. Là định luật ngàn thu. ~Kinh Trung Bộ
76. Nếu được bạn hiền trí. Đồng hành khéo ở chung. Thì vượt mọi nguy nan. Cùng sống vui chánh niệm. ~ Kinh Trung Bộ
77. Nếu không bạn hiền trí. Như vua bỏ quốc độ. Để độc hành độc bộ. Như voi trú rừng sâu. ~Kinh Trung Bộ
78. Thà một mình mình sống. Không làm bạn kẻ ngu. Độc hành không ác hạnh. Thoải mái như voi rừng. ~ Kinh Trung Bộ
79. Với thiên nhãn thanh tịnh. Phật thấy các hữu tình. Chết rồi lại tái sinh. Tùy theo nghiệp lành dữ. ~Kinh Trung Bộ
80. Ai thành tựu thiện hành. Về thân, lời, và ý. Làm việc theo chánh kiến. Không phỉ báng bậc Thánh. Chết tái sinh cõi lành. Làm người, sinh thiên giới. ~ Kinh Trung Bộ
81. Tất cả pháp vô ngã. Với tuệ quán thấy vậy. Đau khổ, được nhàm chán. Chính con đường thanh tịnh. ~ PC279
82. Các hành đều vô thường. Đó là pháp thịnh suy. Đã sinh thì phải tử. Tịch diệt là an vui. Ví như nhà thợ gốm. Nắn đất làm đồ dùng. Tất cả đều phải hoại. Mạng người cũng vậy thôi. ~Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
83. Phật dạy các hữu tình. Là chủ nhân của nghiệp. Là thừa tự của nghiệp. Nghiệp phân chia hữu tình. ~Kinh Trung Bộ
84. Chết yểu do giết hại. Không có tâm từ bi. Sống lâu do tâm từ. Và không ưa giết hại. ~Kinh Trung Bộ
85. Không não hại chúng sinh. Là nguyên nhân ít bệnh. Thường não hại chúng sinh. Đưa đến nhiều bệnh tật. ~Kinh Trung Bộ
86. Người tướng mạo xinh đẹp. Do không hận, không sân. Người tướng mạo xấu xí. Là do nhiều phẫn nộ. ~ Kinh Trung Bộ
87. Nguyên nhân có uy quyền. Là không lòng ganh tỵ. Với người đáng tôn kính. Ít uy quyền là do. Cái thói ưa ganh tỵ. ~ Kinh Trung Bộ
88. Giàu có do bố thí. Nghèo do không cúng dường. Sinh dòng họ cao quý. Do kính người đáng kính. Vào gia đình hèn hạ. Do ngạo mạn kiêu căng. ~ Kinh Trung Bộ
89. Làm người có trí tuệ. Do thường gần bậc trí. Để học hỏi nghĩa lý. Làm người mà ngu đần. Là do không học hỏi. Thân cận các sa môn. ~ Kinh Trung Bộ
90. Hiện tại như thế nào. Đều do trong quá khứ. Đã đi trên con đường. Dẫn đến tình trạng ấy. ~ Kinh Trung Bộ
91. Sở dĩ kẻ làm ác. Mà được sinh cõi lành. Là do nghiệp rất lành. Từ lâu xa về trước. Đến thời có kết quả. Hoặc do lúc lâm chung. Khởi lên một chánh kiến. . ~ Kinh Trung Bộ
92. Kẻ suốt đời làm lành. Mà tái sinh cõi dữ. Là do một ác nghiệp. Từ rất lâu về trước. Nay đến thời gặt quả. Hoặc do lúc lâm chung. Khởi lên một tà kiến. ~ Kinh Trung Bộ
93. Khi biết sắc vô thường. Thanh hương vị xúc pháp. Cả sáu đều vô thường. Ưu tư mong chứng đạt. Đến tối thượng giải thoát. ~ Kinh Trung Bộ
94. Khi với chánh trí tuệ. Rõ các pháp vô thường. Đau khổ và biến hoại. Nên khởi tâm xả bỏ. Đối với sáu ngoại xứ. ~ Kinh Trung Bộ
95. Cái gì vô thường, khổ. Bị biến hoại, hủy diệt. Có nên xem của tôi. Là tôi, tự ngã tôi? . ~ Kinh Trung Bộ
96. Tất cả mười tám thứ. Đều vô thường, khổ, không. Chẳng nên xem của tôi. Là tôi, tự ngã tôi. ~ Kinh Trung Bộ
97. Các pháp được khởi lên. Đều vô thường, đau khổ. Không nên xem của tôi, là tôi, tự ngã tôi. ~ Kinh Trung Bộ
98. Đa văn thánh đệ tử. Yểm ly căn trần thức. Chán xúc thọ tưởng hành. Do yểm ly, lìa dục. Do lìa dục, giải thoát. ~ Kinh Trung Bộ
99. Là đệ tử Phật. Thường phải hết lòng. Ngày đêm tụng niệm. Bát đại nhân giác. ~ Kinh Bát Đại Nhân Giác
100. Một là giác ngộ thế gian vô thường. Đất nước mong manh. Tứ đại khổ không. Ngũ ấm vô ngã. Sinh diệt biến dị. Hư ngụy không chủ. Tâm là nguồn ác. Thân là rừng tội. Quán chiếu như thế. Dần lìa sinh tử. ~ Kinh Bát Đại Nhân Giác
101. Hai là giác ngộ. Địa ngục là khổ. Sinh tử nhọc nhằn. Đều do tham dục. Thiểu dục vô vi. Thân tâm tự tại. ~ Kinh Bát Đại Nhân Giác
102. Ba là giác ngộ. Lòng dục không cùng. Tìm kiếm chẳng ngừng. Thêm lớn tội lỗi. Bồ tát trái lại. Thường niệm tri túc. Sống nghèo hành đạo. Xem tuệ giác là. Sự nghiệp duy nhất. ~ Kinh Bát Đại Nhân Giác
103. Bốn là giác ngộ. Vì tính lười biếng. Nên bị đọa lạc. Phải tinh tiến tu. Phá giặc phiền não. Hàng phục tứ ma. Thoát ngục ấm giới. ~ Kinh Bát Đại Nhân Giác
104. Năm là giác ngộ. Chỉ vì si mê. Nên có sinh tử. Bồ Tát thường nhớ. Học rộng nghe nhiều. Nuôi dưỡng trí tuệ. Thành tựu biện tài. Giáo hóa chúng sanh. Khiến cho mọi người. Được niềm vui lớn. ~ Kinh Bát Đại Nhân Giác
105. Sáu là giác ngộ. Chỉ vì nghèo khổ. Mà nhiều oán hận. Tạo nhiều duyên ác. Bồ tát bố thí. Không nệ oán thân. Xóa bỏ thù hận. Không ghét kẻ ác. ~ Kinh Bát Đại Nhân Giác
106. Bảy là giác ngộ. Năm thứ dục lạc. Gây thành tội nạn. Người đã xuất gia. Tuy ở cõi tục. Không nhiễm thói đời. Pháp khí chỉ là. Ba y một bát. Chí nguyện xuất trần. Giữ đạo thanh bạch. Phạm hạnh cao vời. Đem lòng từ bi. Đối với muôn loại. ~ Kinh Bát Đại Nhân Giác
107. Tám là giác ngộ. Ngọn lửa sinh tử. Đang cháy hừng hực. Thống khổ vô biên. Phát tâm đại thừa. Độ cho tất cả. Nguyện thay chúng sinh. Chịu vô lượng khổ. Khiến cho mọi loài. Hoàn toàn đạt tới. Niềm vui to lớn. ~ Kinh Bát Đại Nhân Giác
108. Đừng tìm về quá khứ. Đừng tưởng tới tương lai. Quá khứ đã không còn. Tương lai thì chưa tới. Hãy quán chiếu sự sống. Trong giờ phút hiện tại. Kẻ thức giả an trú. Vững chãi và thảnh thơi. ~ Kinh Người biết sống một mình
109. Phải tinh tiến hôm nay. Kẻo ngày mai không kịp. Cái chết đến bất ngờ. Không thể nào mặc cả. Người nào biết an trú. Đêm ngày trong chánh niệm. Thì Mâu Ni gọi là. Người Biết Sống Một Mình. ~ Kinh Người Biết Sống Một Mình
110. Quán chiếu vào cuộc đời. Thấy rõ được vạn pháp. Không kẹt vào pháp nào. Lìa xa mọi ái nhiễm. Sống an lạc như thế. Tức là sống một mình. ~ Kinh Người Biết Sống Một Mình
111. Lánh xa kẻ xấu ác. Được thân cận người hiền. Tôn kính bậc đáng kính. Là phước đức lớn nhất. ~Kinh Phước Đức
112. Sống trong môi trường tốt. Được tạo tác nhân lành. Được đi trên đường chánh. Là phước đức lớn nhất. ~ Kinh Phước Đức
113. Có học, có nghề hay. Biết hành trì giới luật. Biết nói lời ái ngữ. Là phước đức lớn nhất. ~ Kinh Phước Đức
114. Được cung phụng mẹ cha. Yêu thương gia đình mình. Được hành nghề thích hợp. Là phước đức lớn nhất. ~ Kinh Phước Đức
115. Sống ngay thẳng, bố thí. Giúp quyến thuộc thân bằng. Hành xử không tỳ vết. Là phước đức lớn nhất. ~ Kinh Phước Đức
116. Tránh không làm điều ác. Không say sưa nghiện ngập. Tinh cần làm việc lành. Là phước đức lớn nhất. ~ Kinh Phước Đức
117. Biết khiêm cung lễ độ. Tri túc và biết ơn. Không bỏ dịp học đạo. Là phước đức lớn nhất. ~ Kinh Phước Đức
118. Biết kiên trì phục thiện. Thân cận giới xuất gia. Dự pháp đàm học hỏi. Là phước đức lớn nhất. ~ Kinh Phước Đức
119. Sống tinh cần, tỉnh thức. Học chân lý nhiệm màu. Thực chứng được Niết Bàn. Là phước đức lớn nhất. ~ Kinh Phước Đức
120. Chung đụng trong nhân gian. Tâm không hề lay chuyển. Phiền não hết, an nhiên. Là phước đức lớn nhất. ~ Kinh Phước Đức
121. Tín tâm, sống giới hạnh. Đủ danh xưng, tài sản. Chỗ nào, người ấy đến. Chỗ ấy được cung kính. ~ PC 303
122. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức buộc ràng. Biết chúng không thật không cần cởi. Hành tâm Bồ tát không vướng mắc. Đó gọi là Bồ tát tối thượng. ~ Kinh Bát Nhã Hành
123. Ai tới đích không sợ. Ly ái, không nhiễm ô. Nhổ mũi tên sanh tử. Thân này, thân cuối cùng. ~PC351
124. Biết rõ tự thân và chúng sanh. Biết rõ các pháp cũng như thế. Sinh diệt không hai, không phân biệt. Là hành Bát nhã Hành tối thượng. ~ Kinh Bát Nhã Hành
125. Nếu không trú sắc, không trú thọ. Cũng không trú tưởng, hành và thức. Mà chỉ an trú nơi chánh pháp. Là hành Bát Nhã hành tối thượng. ~ Kinh Bát Nhã Hành
126. Ai sống nhìn tịnh tướng. Không hộ trì các căn. Ăn uống thiếu tiết độ. Biếng nhác, chẳng tinh cần. Ma uy hiếp kẻ ấy. Như cây yếu trước gió. ~PC007
127. Không thấy rõ ái dục. Mãi vướng vào ái dục. Ảo tưởng về ái dục. Đưa người về nẻo chết. ~Kinh Tuổi trẻ và Hạnh phúc
128. Thấy chân tướng ái dục. Tâm ái dục không sinh. Tâm ái dục không sinh. Ai cám dỗ được mình? ~ Kinh Tuổi trẻ và Hạnh phúc
129. Mặc cảm hơn, kém, bằng. Tạo ra nhiều rối rắm. Ba mạn đã vượt rồi. Tâm không còn khuynh động. ~ Kinh Tuổi trẻ và Hạnh phúc
130. Trừ dục, vượt ba mạn. Tâm lặng, hết mong cầu. Mọi đau phiền cởi bỏ. Đời này và đời sau. ~ Kinh Tuổi trẻ và Hạnh phúc
131. Tìm ta qua hình sắc. Cầu ta qua âm thanh. Là kẻ hành tà đạo. Không thể thấy Như Lai. ~ Bài kệ kinh Kim Cang
132. Tất cả pháp hữu vi. Như mộng huyễn bào ảnh. Như sương như chớp lòe. Hãy quán chiếu như thế. ~ Bài kệ kinh Kim Cang
133. Kẻ trí sống tại gia. Thấy sợ cảnh địa ngục. Nên thọ trì chánh pháp. Dứt trừ mọi nẻo ác. Học hỏi mà hành trì. ~ Kinh Người Áo Trắng
134. Không giết hại chúng sinh. Chân thật không nói dối. Không lấy của không cho. Trung kiên bạn hôn phối. Thói tà dâm lìa bỏ. Nhất quyết không uống rượu. Để tâm chẳng loạn cuồng. ~ Kinh Người Áo Trắng
135. Thường thực tập niệm Phật. Thường thực tập niệm Pháp. Thường thực tập niệm Tăng và niệm Giới. Tâm an lạc thảnh thơi. ~ Kinh Người Áo Trắng
136. Nếu có ai ác ý. Xô vào hầm lửa lớn. Niệm sức mạnh Quan Âm. Hầm lửa biến hồ sen. ~ Kinh Sức mạnh Quan Âm
137. Đang trôi dạt đại dương. Gặp nạn Rồng, Quỷ, Cá. Niệm sức mạnh Quan Âm. Sóng gió không nhận chìm. ~ Kinh Sức mạnh Quan Âm
138. Đứng chóp núi Tu Di. Bị người ta xô ngã. Niệm sức mạnh Quan Âm. Như mặt trời trên không. ~ Kinh Sức mạnh Quan Âm
139. Bị người dữ đuổi chạy. Rơi xuống núi Kim Cương. Niệm sức mạnh Quan Âm. Không hao một mảy lông. ~ Kinh Sức mạnh Quan Âm
140. Bị oán tặc vây hãm. Cầm đao thương sát hại. Niệm sức mạnh Quan Âm. Oán tặc thấy thương tình. ~ Kinh Sức mạnh Quan Âm
141. Bị khổ nạn vua quan. Sắp sửa bị gia hình. Niệm sức mạnh Quan Âm. Đao kiếm gãy từng khúc. ~ Kinh Sức mạnh Quan Âm
142. Nơi tù ngục xiềng xích. Chân tay bị gông cùm. Niệm sức mạnh Quan Âm. Được tháo gỡ tự do. ~ Kinh Sức mạnh Quan Âm
143. Gặp thuốc độc, trù, ếm. Nguy hại đến thân mình. Niệm sức mạnh Quan Âm. Người gây lại gánh chịu. ~ Kinh Sức mạnh Quan Âm
144. Gặp La Sát hung dữ. Rồng độc và quỷ ác. Niệm sức mạnh Quan Âm. Hết dám làm hại ta. ~ Kinh Sức mạnh Quan Âm
145. Gặp ác thú vây quanh. Nanh vuốt thật hãi hùng. Niệm sức mạnh Quan Âm. Đều vội vàng bỏ chạy. ~ Kinh Sức mạnh Quan Âm
146. Rắn độc và bò cạp. Lửa khói un hơi độc. Niệm sức mạnh Quan Âm. Theo tiếng tự lui về. ~ Kinh Sức mạnh Quan Âm
147. Sấm sét, mây, điện, chớp. Mưa đá tuôn xối xả. Niệm sức mạnh Quan Âm. Đều kịp thời tiêu tán. ~ Kinh Sức mạnh Quan Âm
148. Nơi án tòa kiện tụng. Chốn quân sự hãi hùng. Niệm sức mạnh Quan Âm. Oán thù đều tiêu tán. ~ Kinh Sức mạnh Quan Âm
149. Sông Ái dài muôn dặm. Biển mê sóng vạn tầm. Cõi luân hồi muốn thoát. Niệm Phật hãy nhất tâm. ~ Niệm Phật
150. Thức dậy miệng mỉm cười. Hăm bốn giờ tinh khôi. Xin nguyện sống trọn vẹn. Mắt thương nhìn cuộc đời. ~ Thi kệ nhật dụng
151. Đặt chân trên mặt đất. Là thể hiện thần thông. Từng bước chân tỉnh thức. Làm hiển lộ Pháp thân. ~ ~ Thi kệ nhật dụng
152. Sáng, trưa, chiều và tối. Mọi loài hãy giữ gìn. Nếu dưới chân lỡ đạp. Xin nguyện chóng siêu sinh. Nam Mô Bồ tát Siêu Lạc Địa! ~ Thi kệ nhật dụng
153. Mở cửa nhìn Pháp thân. Đời màu nhiệm không cùng. Lòng dặn lòng tỉnh thức. Dòng nước tâm trong ngần. ~ Thi kệ nhật dụng
154. Nước từ nguồn suối cao. Nước từ lòng đất sâu. Nước màu nhiệm tuôn chảy. Ơn nước luôn tràn đầy. ~ Thi kệ nhật dụng
155. Vặn nước để rửa tay. Xin nguyện cho mọi người. Có đôi bàn tay khéo. Gìn giữ trái đất này. ~ Thi kệ nhật dụng
156. Đánh răng và súc miệng. Cho sạch nghiệp nói năng. Miệng thơm lời chánh ngữ. Hoa nở tự vườn tâm. ~ Thi kệ nhật dụng
157. Chánh niệm là đài gương. Gương soi hình tứ đại. Đẹp nhất là tình thương. Và cái nhìn rộng rãi. ~ Thi kệ nhật dụng
158. Thở vào tâm tĩnh lặng. Thở ra miệng mỉm cười. An trú trong hiện tại. Giờ phút đẹp tuyệt vời. ~ Thi kệ nhật dụng
159. Khổ thọ và lạc thọ. Như mây trời theo gió. Hơi thở là dây neo. Thuyền về nơi bến cũ. ~ Thi kệ nhật dụng
160. Trong thể tính chân như. Không chủ thể đối tượng. Đệ tử kính lạy Phật. Trong tương cảm nhiệm màu. Biểu hiện khắp mười phương. Như đế châu ảnh chiếu. Nơi nào cũng có Phật. Và có con kính lạy! ~ Thi kệ nhật dụng
161. Xin cắt một cành hoa. Tặng phẩm của đất trời. Hoa là vị Bồ tát. Làm đẹp cho cuộc đời. ~ Thi kệ nhật dụng
162. Trang nghiêm tịnh độ. Nơi cõi Ta bà. Đất tâm thanh tịnh. Hiển lộ ngàn hoa. ~ Thi kệ nhật dụng
163. Thắp lên một ngọn đèn. Cúng dường vô lượng Phật. Một tâm niệm an lành. Làm rạng ngời mặt đất. ~ Thi kệ nhật dụng
164. Thất niệm là bóng đêm. Chánh niệm là ánh sáng. Đưa tỉnh thức trở về. Cho thế gian tỏa rạng. ~ Thi kệ nhật dụng
165. Cái giận làm tôi xấu. Biết vậy tôi mỉm cười. Quay về thủ hộ ý. Từ quán không buông lơi. ~ Thi kệ nhật dụng
166. Dầu nói ít kinh điển. Nhưng hành pháp, tùy pháp. Từ bỏ tham, sân, si. Tỉnh giác, tâm giải thoát. Không chấp thủ hai đời, Dự phần Sa môn hạnh. ~ Thi kệ nhật dụng
167. Quay về nương tựa. Hải đảo tự thân. Chánh niệm là Phật. Soi sáng xa gần. Hơi thở là Pháp. Bảo hộ thân tâm. Năm uẩn là Tăng. Phối hợp tinh cần. ~ Thi kệ nhật dụng
168. Thở vào, thở ra, là hoa tươi mát, là núi vững vàng, nước tịnh lặng chiếu, không gian thênh thang. ~ Thi kệ nhật dụng
169. Giận nhau trong tích môn. Nhắm mắt nhìn mai sau. Trong ba trăm năm nữa. Người đâu và ta đâu? ~ Thi kệ nhật dụng
170. Ngày nay đã qua. Đời sống ngắn lại. Hãy nhìn cho kỹ. Ta đã làm gì? Đại chúng hãy cùng tinh tiến. Thiền tập hết lòng. Sống cho sâu sắc và thảnh thơi. Hãy nhớ vô thường. Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng. ~ Kệ vô thường
171. Con xin đem ba nghiệp thanh tịnh. Kính lạy tất cả hằng sa Phật. Trong các thế giới khắp mười phương. Quá khứ, vị lai và hiện tại. ~ Kinh Mười Nguyện Phổ Hiền
172. Từ xưa con đã tạo nghiệp xấu. Vì tham, sân, si từ vô thỉ. Do thân, miệng, ý mà phát sinh. Nay con đều sám hối tất cả. ~ Kinh Mười Nguyện Phổ Hiền
173. Một lòng kính lạy Phật, Pháp, Tăng. Trong suốt mười phương, và ở trong con, cùng khắp pháp giới, thấu suốt ba đời, con xin phủ phục, quay về nương tựa. ~ Lạy Tam Bảo
174. Nguyện theo hơi thở. Nở nụ cười tươi. Nguyện học nhìn cuộc đời. Bằng con mắt quán chiếu. ~ Quy nguyện
175. Nguyện xin tìm hiểu, nỗi khổ của mọi loài. Tập từ bi, hành hỷ xả. ~ Quy nguyện
176. Sáng cho người thêm niềm vui. Chiều giúp người bớt khổ. ~ Quy nguyện
177. Nguyện rũ bỏ âu lo. Học tha thứ bao dung. Cho tâm tư nhẹ nhõm. ~ Quy nguyện
178. Con về nương tựa Phật, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời. ~ Quy y Phật
179. Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết. ~ Quy y Pháp
180. Đã về nương tựa Phật, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời. ~ Quy y Phật
181. Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa. ~ Quy y Pháp
182. Về nương tựa Phật trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ đề. ~ Quy y Phật
183. Về nương tựa Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa. ~ Quy y Pháp
184. Con nguyện xin tập nhìn mọi người chung quanh con bằng con mắt từ bi, bằng tâm tình hiểu biết. ~ Bài tụng hạnh phúc
185. Con xin tập lắng nghe bằng lỗ tai xót thương, bằng tấm lòng lân mẫn. ~ Bài tụng hạnh phúc
186. Nguyện đạt tới hiểu biết lớn, nguyện thành tựu thương yêu sâu. ~ Tùy hỷ hồi hướng
187. Tất cả mọi động tác của thân miệng ý, đều xin hướng về, làm hạnh phúc cho mọi người, mọi loài. ~ Tùy hỷ hồi hướng
188. Phải một lòng tinh tấn, rời các sự buông lung. Các Phật rất khó gặp. Ức kiếp được một lần. ~ Kinh Pháp Hoa
189. Hoặc người lòng vui mừng. Ca ngâm khen đức Phật. Nhẫn đến một tiếng nhỏ. Đều đã thành Phật đạo. ~ Kinh Pháp Hoa
190. Nếu người lòng tán loạn. Nhẫn đến dùng một bông. Cúng dường nơi tượng vẽ. Lần thấy các đức Phật. ~ Kinh Pháp Hoa
191. Nếu người lòng tán loạn. Vào nơi trong tháp miếu. Một xưng nam mô Phật. Đều đã thành Phật đạo. ~ Kinh Pháp Hoa
192. Lại có hàng Phật tử. Chuyên tâm nơi Phật đạo. Thường thực hành từ bi. Tự biết mình làm Phật. ~ Kinh Pháp Hoa
193. Nếu có chúng sanh kham thọ pháp. Thần lực của Phật dìu dắt họ. Khiến họ thường thấy Phật hiện tiền. ~ Kinh Hoa Nghiêm
194. Theo lòng chúng sanh chỗ mong muốn. Thần lực của Phật đều hiện được. Mỗi mỗi sai khác bất tư nghì. ~ Kinh Hoa Nghiêm
195. Vì trần số cõi khắp mười phương. Có bao nhiêu Phật đều thờ kính. Nghe pháp dứt nhiễm chẳng luống công. ~ Kinh Hoa Nghiêm
196. Chúng sanh nghiệp hoặc luôn che đậy. Kiêu mạn phóng dật lòng buông lung. Như Lai vì họ dạy pháp lành. ~ Kinh Hoa Nghiêm
197. Nhất thiết thế gian chơn Đạo sư. Vì cứu vì độ mà xuất hiện. Chỉ cho chúng sanh chỗ an vui. ~ Kinh Hoa Nghiêm
198. Phật nơi vô lượng kiếp lâu xa. Đã cạn thế gian biển ưu não. Mở rộng đạo ly trần sạch trong. Soi sáng chúng sanh đèn trí tuệ. ~ Kinh Hoa Nghiêm
199. Sanh lão bệnh tử ưu bi khổ. Bức ngặt thế gian không tạm dứt. Như Lai xót thương nguyện dứt trừ. ~ Kinh Hoa Nghiêm
200. Chúng sanh một phen thấy được Phật. Tất cả nghiệp chướng sẽ trừ sạch. Lìa các nghiệp ma trọn không thừa. ~ Kinh Hoa Nghiêm
201. Nếu niệm Như Lai chút công đức. Nhẫn đến một niệm tâm kính ngưỡng. Lo sợ ác đạo đều dứt trừ. ~ Kinh Hoa Nghiêm
202. Nỗ lực giữ chánh niệm. Tịnh hạnh, hành thận trọng. Tự điều, sống theo pháp. Ai sống, không phóng dật. Tiếng lành, ngày tăng trưởng. ~PC024
203. Tâm lượng chúng sanh niệm niệm khác. Phật trí rộng lớn đều rõ biết. Thuyết pháp cho họ được vui mừng. ~ Kinh Hoa Nghiêm
204. Chúng sanh không có thật an vui. Mê chìm ác đạo thọ sự khổ. Như Lai dạy họ pháp tánh môn. ~ Kinh Hoa Nghiêm
205. Như Lai hy hữu đại từ bi. Vì lợi chúng sanh vào các cõi. Thuyết pháp khuyên họ khiến làm lành. ~ Kinh Hoa Nghiêm
206. Thế Tôn khai thị pháp quang minh. Phân biệt thế gian các nghiệp tánh. Chỗ làm thiện ác không mất hư. ~ Kinh Hoa Nghiêm
207. Phật là chỗ nương tất cả phước. Ví như địa cầu gìn cung điện. Khéo truyền đạo màu rất an vui. ~ Kinh Hoa Nghiêm
208. Biển khổ rộng lớn của thế gian. Phật đều có thể tiêu trừ sạch. Phật nhiều phương tiện đại từ bi. ~ Kinh Hoa Nghiêm
209. Chúng sanh mê lầm thường lưu chuyển. Ngu si che chướng rất kín chắc. Như Lai vì họ nói pháp màu. ~ Kinh Hoa Nghiêm
210. Chúng sanh nhiễm trước vì chướng nặng. Chạy theo đường ma thường lưu chuyển. Như Lai khai thị giải thoát môn. ~ Kinh Hoa Nghiêm
211. Chúng sanh mê vọng đủ sự khổ. Phật ở trong đó thường cứu hộ. Khiến dứt phiền não tâm vui mừng. ~ Kinh Hoa Nghiêm
212. Thần thông tự tại bất tư nghì. Thân Phật hiện khắp mười phương cõi. Nhưng vẫn bất động không khứ lai. ~ Kinh Hoa Nghiêm
213. Tất cả chúng sanh lòng sân hận. Ngu si ràng buộc chìm biển khổ. Như Lai xót thương đều dứt trừ. ~ Kinh Hoa Nghiêm
214. Chúng sanh bức ngặt trong các cõi. Nghiệp hoặc trôi chìm không người cứu. Phật dùng đại bi khiến thoát lìa. ~ Kinh Hoa Nghiêm
215. Nỗ lực, không phóng dật. Tự điều, khéo chế ngự. Bậc trí, xây hòn đảo. Nước lụt, khó ngập tràn. ~ PC025
216. Chúng sanh tạo ác nghiệp chướng nhiều. Phật dạy lý màu khiến rõ biết. Ví như đèn sáng chiếu thế gian. ~ Kinh Hoa Nghiêm
217. Trong tất cả loài diễn diệu âm. Thuyết pháp lợi ích vô lượng chúng. Tiếng Phật đến đâu khổ dứt trừ. ~ Kinh Hoa Nghiêm
218. Vô lượng chúng sanh chấp tà đạo. Phật dạy chánh đạo bất tư nghì. Khiến khắp thế gian thành pháp khí. ~ Kinh Hoa Nghiêm
219. Tất cả chúng sanh đủ phiền não. Tất cả tùy miên cùng tập khí. Như Lai xuất hiện khắp thế gian. Đều dùng phương tiện khiến diệt trừ. ~ Kinh Hoa Nghiêm
220. Chớ sống đời phóng dật. Chớ mê say dục lạc. Không phóng dật, thiền định. Đạt được an lạc lớn. ~PC027
221. Xưa Phật tu hành vô lượng kiếp. Vô lượng thiền định đều thanh tịnh. Người thấy được Phật tâm vui mừng. Phiền não chướng cấu đều trừ diệt. ~ Kinh Hoa Nghiêm
222. Phật rưới pháp vũ vô biên lượng. Hay khiến người thấy đều mừng rỡ. Thiện căn tối thắng từ đây sanh. ~ Kinh Hoa Nghiêm
223. Tất cả chúng sanh những biển nghiệp. Phật xưa khai thị đồng không khác. Đều khiến chúng sanh nghiệp hoặc trừ. ~ Kinh Hoa Nghiêm
224. Tâm hoảng hốt, dao động. Khó hộ trì, khó nhiếp. Người trí làm tâm thẳng. Như thợ tên làm tên. ~ PC033
225. Phật là Đạo sư của thế gian. Pháp vân, pháp vũ chẳng lường được. Tiêu cạn biển khổ vốn vô cùng.
226. Phật là biển phước điền công đức. Hay khiến chúng sanh lìa điều ác. Nhẫn đến thành tựu đại Bồ đề. ~ Kinh Hoa Nghiêm
227. Trăm ngàn muôn kiếp khó gặp Phật. Ai được thấy Phật và nghe danh. Tất được lợi ích không luống qua. ~ Kinh Hoa Nghiêm
228. Như Lai khắp phóng đại quang minh. Tất cả mười phương đều chiếu đến. Chúng sanh niệm Phật sanh công đức. ~ Kinh Hoa Nghiêm
229. Nếu ai muốn thấy và muốn hiểu. Chư Phật có mặt trong ba đời. Người ấy phải quán chiếu pháp giới. Tất cả đều do tâm mà thôi. ~ Kinh Hoa Nghiêm
230. Như nước sông chảy máu. Theo dòng trôi đi mãi. Mạng người cũng như vậy. Qua rồi không trở lại. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
231. Hãy học hạnh độc cư. Nếu không có bạn hiền. Thà một mình tu thiện. Không làm bạn kẻ ngu. Vui tu học giới hạnh. Cần chi kẻ bên ta. Sống một mình an lạc. Như voi giữa rừng già. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
232. Nếu hiểu biết chút ít. Tự cao, khinh khi người. Như đuốc, kẻ mù cầm. Người sáng, mình tối tăm. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
233. Hành từ bi bất sát. Thường biết thu nhiếp thân. Đây là chỗ bất tử. An lạc không tai họa. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
234. Hành từ bi bất sát. Thận trọng ý và lời. Đây là chỗ bất tử. An lạc không tai họa. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
235. Tuân theo đạo vô vi. Không tổn hại chúng sanh. Tâm không bị phiền não. Tương xứng với Phạm thiên. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
236. Thường dùng đức từ bi. Thanh tịnh như Phật dạy. Biết đủ và biết dừng. Sẽ vượt qua sinh tử. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
237. Đức tin qua được biển. Thu nhiếp là thuyền sư. Tinh tấn trừ hết khổ. Trí tuệ đến bờ kia. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
238. Kẻ sĩ có tín hạnh. Bậc Thánh thường ngợi khen. Người vui đạo tịch tĩnh. Mọi trói buộc giải trừ. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
239. Có tin mới đắc đạo. Y pháp đến Niết Bàn. Nhớ nghe thành trí tuệ. Đến được chỗ quang minh. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
240. Vui mà sống dù đời đầy đau khổ. Buồn làm chi bạn hỡi thở than chi. Và sâu lo nghĩ lại ích gì? Hãy can đảm sống những ngày hiện tại. ~ Vui mà sống
241. Đời tan vỡ ta mau xây dựng lại. Dù gian lao cực khổ chớ than van. Tập kiên tâm bền chí chịu nghèo nàn. Nếu bạn muốn ngày mai tươi sáng. ~ Vui mà sống
242. Xua ý nghĩ vẩn vơ và chán nản. Nó chỉ làm tê liệt bộ thần kinh. Tạo nguồn vui lành mạnh ở tâm linh. Nuôi hoài bão bổ sung nguồn tinh lực. ~ Vui mà sống
243. Trong cuộc sống bao nhiêu điều bực tức. Chuyện thế tình còn lắm chuyện bất công. Đủ trăm cay ngàn đắng tới tê lòng. Bạn bình tĩnh giữ nụ cười êm dịu. ~ Vui mà sống
244. Bạn bình tĩnh nhủ lòng thôi ráng chịu. Hơn thua chi câu nhịn chín câu lành. Trong trường đời còn lắm chuyện đua tranh. Bạn phải biết sống cuộc đời bổ ích. ~ Vui mà sống
245. Đừng nhạo báng, đừng bao giờ khiêu khích. Làm phiền lòng bạn hữu ích gì đâu. Khen người đi, bạn có sức nhiệm màu. Tạo cho bạn một nguồn vui thanh tú. ~ Vui mà sống
246. Tôi còn nhớ lời người xưa khuyên nhủ. Hãy soi gương để kiểm thảo lấy mình. Nếu mình cười, thì gương cũng cười tình. Bằng mình khóc, gương cũng hòa lệ khóc. ~ Vui mà sống
247. Non và biển giúp ta thêm bài học. Non muốn cao nên non đứng một mình. Biển bao la mà biển thật hữu tình. Đã thâu được vào lòng ngàn kênh rạch. ~ Vui mà sống
248. Người luyện chí không bao giờ quên sách. Những món ăn bổ ích của tinh thần. Nhạc thi ca am hiểu một vài phân. Để hòa hợp hồn mình vào vũ trụ. ~ Vui mà sống
249. Vươn mình lên với cánh lông đầy đủ. Chim Đại bàng vỗ cánh tung trời xanh. Bạn lòng ơi hãy tu dưỡng lấy mình. Vui mà sống dù đời đầy đau khổ. ~ Vui mà sống
250. Có tín và giữ giới. Tuệ quán siêng tu hành. Bậc trượng phu trí tuệ. Qua được biển sinh tử. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
251. Nói lời pháp ngữ. Làm sự độ sanh. Ăn thức trai thanh. Mặc manh hoại sắc. ~ Thập lục hạnh
252. Thân trau giới luật. Tâm buộc định thiên. Trí chiếu tuệ viên. Tánh viên chơn tánh. ~ Thập lục hạnh
253. Mắt chẳng nhìn quanh. Tai không nghe lóng. Mũi chẳng ngửi xằng. Miệng không nói khống. Thân chẳng lăng xăng. Ý không vọng động. ~ Lục căn
254. Sầu lo vết thương nặng. Ngu muội mũi tên sâu. Dầu mạnh không nhổ nổi. Đa văn trừ được thôi. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
255. Dẫu người sống trăm năm. Siêng phụng sự quỷ thần. Cúng tế bằng voi ngựa. Chẳng bằng một việc từ. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
256. Lời ác hay mắng chưởi. Kiêu mạn, khinh miệt người. Ai làm hạnh nghiệp này. Thù oán sẽ theo đây. Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
257. Lời ôn tồn, hòa thuận. Tôn kính chẳng khinh ai. Mở trói buộc, an nhẫn. Thù oán tự hết ngay. Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
258. Phật dạy tánh hiền lành. Thương yêu cả chúng sanh. Dầu là loài vật mọn. Cũng Phật tánh như mình. ~ Phóng sanh
259. Con tập lòng từ ái. Nay mua vật phóng sanh. Nguyện ơn trên Phật chứng. Con tạo chút nhơn lành. Phước đức xin hồi hướng. Về cho cả chúng sanh. Nguyện cầu đời hết khổ. Dứt tuyệt nạn đao binh. ~ Phóng sanh
260. Phàm người sống ở đời. Miệng lưỡi chính gươm đao. Chưởi rủa mắng nhiếc nhau. Là cầm dao tự hại. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
261. Ma vương tung bạc rải vàng. Lừng còng con Phật lạc đàng chân tu. Tiếng khen đừng thấy mừng vui. Tiếng chê đừng thấy bùi ngùi khổ đau. ~ Sen gương
262. Tâm là gốc muôn pháp. Tâm đứng đầu, sai sử. Trong tâm khởi niệm ác. Nói ác và làm ác. Thì tội khổ theo ta. Như xe lăn theo vết. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
263. Tâm là gốc muôn pháp. Tâm đứng đầu, sai sử. Trong tâm khởi niệm thiện. Nói thiện và làm thiện. Thì phước lạc theo ta. Như bóng đeo theo hình. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
264. Tạo vui đời sau vui. Làm thiện hai đời vui. Người ấy luôn hoan hỷ. Thấy phước tâm an vui. Nay mừng đời sau mừng. Làm thiện hai đời mừng. Đây là tự giúp mình. Hưởng phước nên mừng vui. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
265. Tạo lo đời sau lo. Làm ác hai đời lo. Kẻ ấy toàn lo sợ. Thấy tội làm bất an. Nay hối đời sau hối. Làm ác hai đời hối. Đây tự chuốc tai ương. Chịu tội đầy khổ não. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
266. Chân thật cho là ngụy. Ngoa ngụy nghĩ là chân. Đó chính là tà kiến. Không được lợi chân thật. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
267. Chân thật biết là chân. Ngoa ngụy rõ là ngụy. Đây gọi là chánh kiến. Quyết được lợi chân thật. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
268. Thế gian ai cũng chết. Ba cõi vốn không an. Chư thiên tuy vui sướng. Phước hết, mạng không còn. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
269. Hãy quan sát thế gian. Đã sinh thì phải tử. Muốn thoát ly sinh tử. Nên thực hành đạo chân. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
270. Như nhà lợp không kín. Nước mưa rơi lọt vào. Ý lơi lỏng không tu. Tham dục liền xen khởi. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
271. Như nhà lợp kín đáo. Nước mưa không lọt vào. Ý miên mật siêng tu. Tham dục không xen khởi. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
272. Kẻ xấu ô nhiễm người. Như gần vật hôi dơ. Mê dần, quen nết xấu. Thành ác mà chẳng hay. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
273. Hiền nhân ảnh hưởng người. Như gần vật xông hương. Trí tăng, quen tánh thiện. Thành hạnh lành sạch thơm. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
274. Giữ giới, phước an vui. Phạm giới tâm lo sợ. Dứt được lậu ba cõi. Người này gần Niết Bàn. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
275. Nếu trước mà phóng dật. Sau biết tự cấm ngăn. Đó nhờ sức niệm định. Tỏa sáng khắp thế gian. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
276. Trước lầm gây nên ác. Sau cải đổi làm lành. Đó nhờ sức niệm thiện. Tỏa sáng khắp thế gian. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
277. Tuổi trẻ biết xuất gia. Siêng tu pháp Phật đà. Như trăng khỏi mây mù. Chiếu sáng khắp thế gian. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
278. Người lúc trước làm ác. Sau ngưng không tái phạm. Như trăng khỏi mây mù. Chiếu sáng khắp thế gian. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
279. Thân này chẳng bền lâu. Rồi phải về đất sâu. Hình rã, thân đi khỏi. Sống tạm, chớ tham cầu. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
280. Chỗ tâm ý suy lường. Rắc rối khó tỏ tường. Nghĩ hướng điều tà ác. Là tự chuốc tai ương. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
281. Ý mình tự gây tạo. Chẳng phải mẹ hay cha. Nên gắng theo nẻo chánh. Chớ quay lại đường tà. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
282. Thấy thân như bọt nước. Pháp tánh vốn huyễn hư. Bẻ gẫy bẫy ma dụ. Không còn có tử sinh. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
283. Hoa thơm hay cỏ lạ. KHông ngược gió xông hương. Người đức hạnh gần đạo. Hương tỏa khắp muôn phương. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
284. Gỗ chiên đàn thơm ngát. Hoa sen xanh ngọt ngào. Tuy rằng hương thơm thật. Sao sánh được giới hương? ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
285. Hương hoa chẳng bao nhiêu. Giá trị không thật nhiều. Hương trì giới thù diệu. Đến cõi trời cao siêu! ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
286. Phật xưa có dạy mấy lời. Thửa rừng công đức một đời trồng gieo. Lửa sân nổi dậy đốt thiêu. Như chim mất cánh, như diều đứt dây. ~ Nhẫn
287. Nhịn nhường là giới đầu tiên. Kìa chư Phật vẫn nhắc khuyên ta hoài. Kẻ mong lìa bỏ trần ai. Mà còn phiền giận thật ngoài chữ tu. ~ Giới
288. Giữ giới hạnh chớ lầm sai. Nói hành tật đố tránh hai tánh này. Hằng gìn bổn nguyện đủ đầy. Thích nơi thanh vắng am mây tu trì. ~ Giới
289. Xét dò kẻ khác làm chi. Hạnh ta, ta giữ cho y mới là. Cũng như lấy mật trong hoa. Con ong có phá màu hoa bao giờ. ~ Giới
290. Cái tâm chớ để bơ phờ. Phải dùng giới buộc, phải nhờ luật vây. Kết gom hạnh đức đủ đầy. Nhiễu nhương phiền não từ đây xa lìa. ~ Giới
291. Điều lành hãy gắng làm bia. Lánh xa điều ác phân chia hai đường. Để tâm trong sáng như gương. Chẳng màng thế sự, chẳng vương bụi trần. ~ Giới
292. Hãy gìn lời nói là cần. Giữ cho tâm ý dần dần thanh bai. Chớ làm một việc đơn sai. Là theo chánh đạo Như Lai lưu truyền. ~ Giới
293. Đời chen lộn ngàn đường tội lỗi. Ta bước riêng một lối thanh cao. Đạo vàng quý báu biết bao. Vừa mình tu tỉnh, vừa trau sửa người. ~ Nhớ ơn Phật
294. Như ruộng nước hôi dơ. Bên đường cái nằm trơ. Hoa sen mọc trong đó. Thơm sạch đẹp ý người. Cũng vậy giữa phàm phu. Bị sinh tử cầm tù. Người trí vui giải thoát. Làm Phật tử tiến tu. ~ Kinh Pháp cú thí dụ, TK Thích Minh Quang dịch
295. Lòng thanh bạch không vương trần tục. Sen trong ngần chẳng chút bùn nhơ. Khua chuông cảnh tỉnh giấc mơ. Gọi người đau khổ sang bờ an nhiên. ~ Cuộc nhân thế
296. Vào cửa đạo làm người thiện tín. Phải học câu nhẫn nhịn thuận hòa. Việc nhỏ nhen thắc mắc bỏ qua. Chỗ tranh cãi rầy rà nên tránh. ~ Khuyến nhẫn
297. Học phép nhẫn chẳng sanh oan trái. Giữ tâm không khỏi phải lụy phiền. Sống cõi đời thong thả bình yên. Hướng nẻo Đạo diệu huyền trực chỉ. ~ Khuyến nhẫn
298. Thiện ác như gieo trồng. Đều theo nghiệp mà sanh. Nào có hột giống đắng. Mà sanh trái chín ngọt. ~ Kinh Đại Bảo Tích
299. Hiện thấy pháp như vậy. Người trí phải suy xét. Khổ báo đền ác nghiệp. Làm lành thường an vui. ~ Kinh Đại Bảo Tích
300. Chứa của đến ngàn ức. Lòng tham lam chẳng xả. Người trí nói người ấy. Thường nghèo khổ ở đời. ~ Kinh Đại Bảo Tích
301. Người dầu không một vật. Mà lòng luôn xả ly. Người trí nói kẻ ấy. Ở đời rất giàu sang. ~ Kinh Đại Bảo Tích
302. Người trí lìa các ác. Tất cả đều đoan nghiêm. Người ngu do tạo nghiệp. Toàn thân đều thô xấu. ~ Kinh Đại Bảo Tích
303. Nên biết vọng ngữ. Là gốc những ác. Phá giới thanh tịnh. Chết đọa tam đồ. ~ Kinh Đại Bảo Tích
304. Nếu người biết tịnh tín. Quy y Phật Pháp Tăng. Nơi thân mạng của cải. Thường nghĩ là chẳng bền. ~ Kinh Đại Bảo Tích
305. Nếu siêng tu niệm xứ. Ưa thích bất phóng dật. Người này gọi là giàu. Của nhiều thường an vui. ~ Kinh Đại Bảo Tích
306. Như lúc lửa cháy lên. Chẳng chán bỏ cỏ cây. Người trí cũng như vậy. Luôn luôn làm điều lành. ~ Kinh Đại Bảo Tích
307. Như nước chẳng chán mây. Như biển chẳng chán nước. Người trí cũng như vậy. Chẳng chán tăng trưởng lành. ~ Kinh Đại Bảo Tích
308. Do nơi thân này thường làm ác. Phải thọ khổ báo vô lượng kiếp. Nên nhớ già chết siêng tu phước. Chánh tín sanh vào trong Phật pháp. ~ Kinh Đại Bảo Tích
309. Đức Phật Như Lai rất khó gặp. Trong vô lượng kiếp một lần hiện. Đối với Phật pháp nên tin sâu. Ác đạo đáng sợ chớ theo nó. ~ Kinh Đại Bảo Tích
310. Tài vật như ảo cũng như mộng. Chúng sinh ngu si bị phỉnh lầm. Trong sát na được sát na mất. Đâu có người trí lại mến luyến. ~ Kinh Đại Bảo Tích
311. Cha mẹ anh em cùng vợ con. Bằng hữu bè bạn và của cải. Chết đi không một cùng gần kề. Chỉ có ác nghiệp thường theo sát. ~ Kinh Đại Bảo Tích
312. Người trí trọn chẳng vì thân ái. Mà tạo nghiệp ác đọa A Tỳ. Chỉ trừ nghiệp mãn mới ra khỏi. Thân thuộc không ai thay thế được. ~ Kinh Đại Bảo Tích
313. Đúng thời bố thí không khinh mạn. Hoan hỷ đem cho chẳng mong cầu. Nơi bốn hạnh này thường siêng tu. Thọ sanh sẽ được đại phú quý. ~ Kinh Đại Bảo Tích
314. Bỏ rời ly gián và tà kiến. Chánh pháp sắp diệt hay hộ trì. Khiến chúng sanh trụ đại bồ đề. Sẽ được quyến thuộc không hư hoại. ~ Kinh Đại Bảo Tích
315. Hoa hương cúng Phật và chùa tháp. Chẳng hại kẻ khác và tạo tượng. Rất tin hiểu nơi Phật Bồ đề. Được ngồi hoa sen sanh trước Phật. ~ Kinh Đại Bảo Tích
316. Thấy người tu hành thuyết chánh pháp. Chẳng hủy báng cũng chẳng trở ngại. Tháp thờ Như Lai cúng đèn sáng. Siêng tu thiền định dạo nước Phật. ~ Kinh Đại Bảo Tích
317. Chẳng lòng dua vạy gần bạn lành. Người có hơn ta không ganh ghét. Người được danh dự thường hoan hỷ. Chẳng chê Bồ Tát được không oán. ~ Kinh Đại Bảo Tích
318. Phát ngôn tu hành thường tương ứng. Chẳng giấu tội mình với thiện hữu. Nghe kinh chẳng tìm lỗi nhân pháp. Lời nói tất cả được người tin. ~ Kinh Đại Bảo Tích
319. Người có cầu dùng thí cho đủ. Tin hiểu pháp sâu cúng trang nghiêm. Tam bửu phước điền siêng cúng dường. Lâm mạng chung thời thấy Phật hiện. ~ Kinh Đại Bảo Tích
320. Ruộng phước Lưỡng Túc Tôn. Cúng thí được báo lớn. Gieo giống vào ruộng này. Hưởng phước lạc vô tận. ~ Kinh Đại Bảo Tích
321. Bố thí chẳng trái nghịch. Nơi của không luyến tiếc. Tìm hiểu các Phật pháp. Đời đời được của báu. ~ Kinh Đại Bảo Tích
322. Tin hiểu không nịnh ganh. Chẳng rêu rao lỗi người. Chuyên lòng một niềm tin. Do đây được của báu. ~ Kinh Đại Bảo Tích
323. Chúng sanh mê vọng đủ sự khổ. Phật ở trong đó thường cứu hộ. Khiến dứt phiền não tâm vui mừng. ~ Kinh Hoa Nghiêm
324. Nếu chẳng thấy Như Lai tối tôn trong Trời Người. Thì uổng thọ thân người. Uổng thọ ăn uống để sống. ~ Kinh Đại Bảo Tích
325. Pháp được Đức Phật nói, Chân thiệt ha độ đời, Chúng tôi học pháp ấy, Để được pháp vô thượng. ~ Kinh Đại Bảo Tích
326. Chư Phật xuất thế rất khó gặp. Được nghe chánh pháp sanh tin khó. Thân người khó được nay đã được. Lành thay Phật pháp người thuận tu. ~ Kinh Đại Bảo Tích
327. Gần thiện tri thức và pháp sư. Phải mau xa rời các ác hữu. Người nơi chúng sanh tưởng bình đẳng. Cẩn thận chớ khởi tâm ngã nhơn. ~ Kinh Đại Bảo Tích
328. Chư Phật số như hằng hà sa. Dâng diệu hương hoa để cúng dường. Phước đức này so còn chẳng bằng. Phát tâm Bồ đề bảy bất thối. ~ Kinh Đại Bảo Tích
329. Nhẫn nhục được đoan chính. Bố thí sen hóa sanh. Pháp thí biết túc mạng. Ông nên biết như vậy. ~ Kinh Đại Bảo tích
330. Tu tâm được tam muội. Nhẫn được đà la ni. Kính trọng các chúng sanh. Phát ngôn người tín thọ. ~ Kinh Đại Bảo Tích
331. Ở trong các pháp thí. Chẳng từng bị chướng ngại. Do đây, nên thường được. Gặp gỡ các Như Lai. ~ Kinh Đại Bảo Tích
332. Tịnh tín lìa các nạn. Trì giới sanh thiện đạo. Do tu tập pháp Không. Đời đời không phóng dật. ~ Kinh Đại Bảo Tích
333. Chẳng hại được trường thọ. Trừ khổ lo cho người. Thân tráng kiện ít bệnh. Hòa giải quyến thuộc vững. ~ Kinh Đại Bảo Tích
334. Chẳng ganh được của giàu. Chẳng xan đồ dùng tăng. Khiêm hạ thành tôn quý. Có oai đức tự tại. ~ Kinh Đại Bảo Tích
335. Hằng thí món ăn ngon. Kẻ sợ khiến an ổn. Do đây, được đại lực. Oai thế thường siêu thắng. ~ Kinh Đại Bảo Tích
336. Đức Phật chẳng khen ngợi. Hàng phàm phu hành dục. Ly dục ly tham ái. Mới thành Thiên Nhân Sư. ~ Kinh Đại Bảo Tích
337. Tôi chẳng tham ái dục. Tham dục bị Phật quở. Ly dục ly tham ái. Mới thành Thiên Nhân Sư. ~ Kinh Đại Bảo Tích
338. Người trí làm lợi ích. Thường ban cho an vui. Được lợi chẳng tự cao. Bị khi chẳng khinh giận. ~ Kinh Đại Bảo Tích
339. Người trí nơi khổ vui. Bất động như hư không. Khéo quan sát phiền não. Lìa cả ngã, ngã sở. ~ Kinh Đại Bảo Tích
340. Phát Bồ đề tâm tức cúng dường. Giới nhẫn tinh tiến thiền trí tuệ. Nếu vì lòng thương mà phát tâm. Phước ấy vô lượng chẳng cùng tận. ~ Kinh Đại Bảo Tích
341. Người tâm ý an tịnh. Lời an, nghiệp cũng an. Chánh trí, chơn giải thoát. Tịnh lạc là vị ấy. ~ PC096
342. Nếu ta điều phục thân khẩu ý. Thì hay nhẫn được các khổ não. Hay phá tất cả các chúng ma. Với các tà ác ta chẳng động. ~ Kinh Đại Bảo Tích
343. Dầu được cúng dường lòng chẳng mừng. Mắng chửi hủy nhục lòng chẳng giận. Tu tập từ bi tâm bình đẳng. Đây gọi là tịnh ấn tam muội. ~ Kinh Đại Bảo Tích
344. Thấy kẻ thân xấu không xinh đẹp. Nghèo cùng hèn hạ lòng chẳng khinh. Vì đạo Bồ Đề nói tịnh pháp. Đây thì gọi là tịnh ấn định. ~ Kinh Đại Bảo Tích
345. Ưa thích thánh hạnh trì tịnh giới. Xa lìa tham dục sân khuể si. Bồ Tát trước tự điều thân mình. Rồi sau vì người mà diễn thuyết. ~ Kinh Đại Bảo Tích
346. Xa lìa mắng chửi chẳng giận tranh. Nói lời dịu dàng lòng thương mến. Vì chúng nói pháp chẳng nói được. Nói rồi trong lòng chẳng kiêu mạn. ~ Kinh Đại Bảo Tích
347. Nếu chúng sanh trong vô lượng đời. Gần kề thiện hữu nghe chánh pháp. Nghe rồi liền được đại phước đức. Thường thọ diệu lạc như chư Phật. Tất cả các ma chẳng hại được. ~ Kinh Đại Bảo Tích
348. Nếu có Bồ Tát siêng tinh tiến. Thì hay phá hoại các phiền não. Như lửa đốt cháy được cỏ khô. Tâm Bồ Đề đốt được phiền não. ~ Kinh Đại Bảo Tích
349. Dầu thí trân bửu vô lượng quốc. Chẳng bằng chí tâm tụng một kệ. Pháp thí tối diệu thắng tài thí. Vì vậy người trí phải hộ pháp. ~ Kinh Đại Bảo Tích
350. Thường gặp chư Phật thiện tri thức. Thường nghe vô thượng chơn thiệt đạo. Mau được vô lượng đà la ni. Người này đều do hộ chánh pháp. ~ Kinh Đại Bảo Tích
351. Thân khẩu ý giới được thanh tịnh. Đủ đại thần thông đi các nước. Bất thối Bồ đề đủ lục độ. Người này đều do hộ chánh pháp. ~ Kinh Đại Bảo Tích
352. Ngũ dục vô thường như mộng. Mạng người như lửa cỏ sương mai. Vua và nước thành như ảo hóa. Vì vậy người trí chẳng nên tham. ~ Kinh Đại Bảo Tích
353. Như mâu, tên đâm bắn hư không. Không làm thương tổn hư không được. Người hành đạo tu tập quán Không. Cũng không gì làm tổn thương được. ~ Kinh Đại Bảo Tích
354. Như hư không được nước nhuần thấm. Hư không không hề có vui mừng. Người trí được khen được lợi lộc. Vẫn không mừng vui cũng như vậy. ~ Kinh Đại Bảo Tích
355. Như hư không bị chê và được khen. Hư không không hề có phân biệt. Người trí bị chê hoặc được khen. Không có phân biệt cũng như vậy. ~ Kinh Đại Bảo Tích
356. Lúc nghe ác khẩu tiếng chửi mắng. Tâm niệm chẳng động trụ đúng pháp. Quán sát âm thanh như hư không. Đây là vô thượng khẩu nhẫn nhục. ~ Kinh Đại Bảo Tích
357. Không có sanh diệt như hư không. Không tác không thọ như ngọn lửa. Có duyên thì sanh không duyên diệt. Diệt rồi không có chỗ đến đi. ~ Kinh Đại Bảo Tích
358. Nếu muốn xa lìa ba ác cấu. Và tất cả các ma nghiệp khác. Chẳng bị phiền não nó làm hại. Phải nên theo Phật nghe chánh pháp. ~ Kinh Đại Bảo Tích
359. Nếu ai ở trước Phật Thế Tôn. Sám hối phát lộ tất cả tội. Người ấy xa lìa các tà kiến. Hay đến bỉ ngạn khỏi sinh tử. ~ Kinh Đại Bảo Tích
360. Nếu muốn thông đạt vô thượng thừa, và muốn tu hành bát chánh đạo. Nếu muốn dứt hẳn các phiền não, phải nên chí tâm nghe chánh pháp. ~ Kinh Đại Bảo Tích
361. Nếu người thấy được thiệt pháp tánh. Người này phá hoại vô minh mạn. Nếu được thân cận thiện tri thức. Người này mau được vị cam lộ. ~ Kinh Đại Bảo Tích
362. Do vì các ác tâm nhân duyên. Lưu chuyển sanh lão bệnh tử khổ. Vì chẳng thân cận thiện tri thức. Thế nên chẳng đến được bờ kia. ~ Kinh Đại Bảo Tích
363. Nếu hay xa lìa được ác tâm. Các ác tà kiến ác nhân duyên. Hay dứt sanh tử trong ba cõi. Người này được tới bên bờ kia. ~ Kinh Đại Bảo Tích
364. Chúng sanh khó được trọn thân người. Được rồi gặp thiện hữu rất khó. Lòng tin chắc vững lại khó được. Có rồi khó được nghe chánh pháp. ~ Kinh Đại Bảo Tích
365. Tất cả các pháp từ bổn lai. Tánh tất cả pháp không có ngã. Dường như tiếng vang trong hang núi. Đều từ các duyên hòa hợp sanh. ~ Kinh Đại Bảo Tích