Một giây phút sân, trả bằng hàng giờ đau khổ.
Chúng ta có 2 trí thế gian và tâm linh. Thế gian đưa ta vào đường thiện lành, có sức mạnh của sự thiện lành, định tĩnh, ánh sáng của định tĩnh, phát sáng trí tuệ để có thể nhìn ra thế nào là pháp thế gian, thế nào là pháp thuộc về tâm linh nơi chính mình.
Cái ngã thật khủng khiếp. Nên, khó nhìn lỗi mình. Mình bị những lớp ô nhiễm, ác nghiệp ngăn che, nên mình không thấy lỗi mình.
Phước về tâm linh có được, chỉ do ta khéo huân tập.
Làm phước để hồi hướng phước báu cho các oan gia trái chủ, hay hồi hướng về Đạo Vô thượng Bồ đề, có trí tuệ giải thoát; Chồng chéo nhân quả giữa người thế gian với các vị ở cõi khổ, cho nên trì trệ, ngăn che, tăm tối trong tâm, nên cần làm phước để hồi hướng cho các chúng sinh ở cõi khổ đó. Hạ quyết tâm tu tập nhưng bị ngăn che, nên cần tháo mở bằng nhiều cách thức khác nhau. Bố thí, cúng dường, hồi hướng,… Bố thí đủ loại, có người bố thí đồ ăn, thức uống,…., phước trí lớn lắm mới là bố thí pháp. Có những vị đã tu tập rất lâu, nhưng kiếp sống hiện tại, vì bị ngăn che, mà học không được. Chế nhạo người khác học tập kém, thì quả là kém học, kém tu.
Thuộc bài, nhưng hễ ai hỏi, bị hôn trầm, thụy miên luôn, cứng miệng luôn!
Vật thực của hôn trầm, thụy miên: Thấy việc thiện lành tâm không hoan hỷ; Lười biếng; Mệt mỏi, uể oải; THích ăn uống no say, thỏa thuê, không tiết chế ăn uống; Trong đời sống luôn rụt rè, e sợ, nhát, thiếu tự tin, thiếu vươn lên; Tâm phán đoán không như lý tác ý. Khi tâm phán đoán, câu thông vào vùng đen, vùng ô nhiễm, phi như lý tác ý.
Để như lý tác ý được khởi sanh thường xuyên:
- hùng lực trong tâm ta có lực hút siêu mạnh. Ta cần có căn lành được huân tập từ vô lượng kiếp mạnh mẽ hơn lên. Phải học pháp, hành pháp, mỗi ngày một chút. Việc đó cho phước thiện trí. Để tăng lực thiện trí, cần có nền là pháp thiện. Luôn dẫn tâm mình vào đường lành, nghĩ lành, nói lành, làm lành. Việc đó củng cố hùng lực, làm cho như lý tác ý được khởi sanh thường xuyên.
- Chúng ta nhìn vào hành động của một người trước sự vật sự việc, cũng có thể thấy chủng tử thuộc về tập khí đen và tập khí trắng ở nơi họ khác nhau.
- Khi gặp cảnh, chúng sinh quan sát, phân tích theo hướng phi như lý, hay như lý, là tùy thuộc vào chủng tử, tập khí đen (ma lực, bất thiện), trắng (hùng lực, thiện).
- Trong 5 giới, giới 5 là nặng nhất. Nếu phạm giới 5, thì 4 giới trước đều phạm. Phán đoán bị che mờ, hôn trầm thụy miên phát sanh, phi như lý tác ý có mặt. Khi có áp lực trong đời sống, không được dùng rượu, ma túy,… các chất gây nghiện, gây say. Trong bóng tối của sự quên lãng thiện và bất thiện, người ta hành động theo ma lực. Đây là sức mạnh của Si. Si là cha mẹ của hôn trầm và thụy miên, tạo ác nghiệp hết sức dễ dàng, vì họ đắm mình vào thọ dục. Họ đã để hệ thần kinh ngâm trong dục lạc, để chỉ còn sự thích thú duy nhất là thọ hưởng dục lạc. Tất cả tội lỗi, ác nghiệp phát sinh đều nằm trong bóng tối của hôn trầm, thụy miên, si có mặt, phóng dật càng nhiều, ác nghiệp càng dữ dằn.
Phật dạy: Bất cứ giây phút nào cũng phải thiện trí, thiện lương, trí tuệ phát sinh!
Thiền Vipassana, tứ niệm xứ, áp dụng trong đời thường. Không được để hào tơ bất thiện xen vào, đẩy lùi hôn trầm thụy miên, đẩy lùi si, lúc nào cũng có ý thức.
Pháp hôn trầm, thụy miên phủ tràn đời sống của mình. Càng thương mình, càng nhận ra lỗi lầm của mình, nhận rõ ma vương trong lòng mình, ta mới có cơ hội thoát khỏi tay ma vương.
Trạo hối, gồm phóng dật (trạo cử, si), và hối (sân)
Trạo hối làm tâm bất an, xáo trộn.
Phóng dật luôn đi theo nhóm si, vô tàm, vô quý.
Biết là sai nhưng thích làm sai. Ai nói không nghe.
Quý không sợ hậu quả của tội lỗi. Khi si dày đặc trong tâm, thì vừa lì, ngu, dữ tợn, chỉ tới chứ không lui. Ai nói lời khuyên, lời phải, họ có thể giết người kia! Càng ngăn chặn, đúng, mạnh ra sao – họ càng phản ứng mạnh, dữ chừng ấy. Si ám trong tâm, chỉ muốn tới, không muốn lui. Khi để tâm chìm sâu trong tham thọ hỷ, đây chính là vô minh, là si, là hôn trầm, là thụy miên.
Phóng dật làm tâm bất an. Hối phát sanh, thuộc sân phần, có phóng dật, làm cho lực bất an rung động dữ dội, làm hỗn loạn trong tâm dữ dội.
Phóng dật, không yên, si, vô tàm, vô quý
Khi tôi ngồi, tôi không muốn nghĩ, làm, lơ đãng: Đây chính là trạng thái của phóng dật. Cha mẹ nói con, mà con lơ đãng, thì con khó làm việc, học tập giỏi. Con khó tập trung, chú ý. Sau này lớn lên, con sẽ dễ trở nên theo người xấu. Nơi đó, bé có phóng dật, si là sương khói trong tâm. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Các bé này cần được thương yêu, được hỗ trợ, nâng đỡ, đi trên đường lành. Chăm chỉ siêng tu phước thiện, phước trí, để hồi hướng cho con đường phát triển huệ mạng tăng trưởng.
Tu tập là đường khó khăn, mỗi giây mỗi phút mình đều có thể làm lại từ đầu. Ngã một lần thì bò dậy hai lần. Thủng thẳng mà nhặt hoa rơi….
Hối khi phát sinh trong tâm:
Hoặc làm điều sai quấy, việc ác, thì hối lập tức có mặt trong tâm! Vi diệu là ở chỗ đó!
Việc thiện chưa kịp làm thì hối tiếc phát sinh. Hối tiếc phát sanh trong tâm, sẽ làm cho tâm luôn luôn bất an, bồn chồn, ray rứt.
Hối phát sanh, làm rúng động, làm tăng trưởng, có 2 con đường để duyên. 1 là duyên pháp bất thiện, họ hung dữ hơn, thoái đọa hơn. 1 là duyên pháp thiện, có phước lành từ vô lượng kiếp, nhận ra lỗi sai, họ có cúng dường, gieo duyên với Tam Bảo, họ nhận ra lỗi của mình, họ sám hối, họ nguyện dừng lại!
Tôn giáo có mặt ở nơi các tử tù là để cho họ duyên với pháp thiện. Để sau khi thọ án, họ có cơ hội tái sinh an lành hơn ở kiếp sống mới. Nếu không được sự giúp đỡ của các tu sĩ, nếu họ thiếu năng lực tâm linh hỗ trợ, có thể với tâm sân, sợ, trả thù, vô minh tiếp tục, họ sẽ thoái đọa trong các kiếp sống sau, họ tiếp tục gieo thêm vô minh, oan trái cho các chúng sinh đã có nghiệp duyên với họ từ các đời sống trước. Điều này, hoàn toàn bất lợi cho đời sống tâm linh của các tử tù, về mặt lâu dài, sẽ bất lợi cho xã hội ở các kiếp sống mới.
Con đường của quá khứ không thể làm trắng, những ác nghiệp của quá khứ làm pháp hối tăng thêm những điều ô nhiễm tiếp theo. Chúng sinh được gia hộ theo pháp thiện, thì tương lai họ sẽ có những tương lai tươi sáng.
Nếu ta hoặc người đã phạm tội lỗi, nguyện sám hối, đoạn lìa tất cả lỗi lầm. Đây là cách hướng dẫn tâm đúng đắn. Giúp cho ta, chúng sinh có tương lai tươi đẹp, không bị pháp hối làm ô nhiễm tâm.
Tâm phán đoán, gắn với phần trắng đen trong tâm ta, phát sinh ra pháp thiện hoặc pháp bất thiện. Nhưng những pháp bất thiện phát sinh rất nhanh. Khi buồn, tức, mình thấy rõ ràng – đó là phần thiện trí phát sanh, nhưng phần ô nhiễm vẫn ngùn ngụt tăng, bị triền cái ngăn che, nên ô nhiễm vẫn khởi, trở nên bất thiện pháp khởi lên. Nên, cần chú ý, các pháp thiền có thể giúp ta phát sinh sự thấy biết. Thiền trong đời thường, thiền trong hành thiền.
Tự nói với tâm mình: “Tham đọa, sân đọa, si đọa, ngã mạn đọa”.
Một người có vẻ ngoài rất hiền lành, nhưng sự thực bên trong, không xác định rõ là nhẫn nại, nhẫn nhục, hay kiên nhẫn. Nếu là hiền quá hóa cục, thì họ có thể làm những điều mà bình thường họ không dám nghĩ tới. Lúc đó, ma vương trong tâm đã che khuất hết, triền cái che khuất hết, trở thành kiết sử, tạo thành ma lực trong tâm, làm cho thân tâm phải hành xử theo ma lực chỉ đạo. Khi làm xong ác nghiệp rồi, người ta tỉnh lại, những pháp thiện mở dần ra, mở tới đâu đi kèm theo chấn động của nó, hối đến đó. Nếu thiện lành lớn, họ hối là đi liền pháp thiện, họ bất an nhưng nguyện không dám làm lỗi, tội này nữa. Pháp ngăn che của họ đã hạ xuống, họ mới đủ thiện pháp để sám, sửa sai từ giờ trở đi. Họ đã vượt qua được triền cái. Đây chính là năng lực của sám hối. Cần thực sự sám hối trong tâm. Tâm linh sẽ được chuyển hóa, thoát khỏi triền cái, trí tuệ phát sinh.
Năng lực chuyển hóa tâm linh, sau này khi quả trổ sanh, mình có thể có đủ năng lực tiếp nhận nó, nằm ở chỗ ta có thể sám hối từ trong tâm khảm của mình.
Sám hối hời hợt, thì chỉ tăng thêm phần ô nhiễm, không có giá trị chuyển hóa lỗi lầm, người này không biết cách, không đủ can đảm chấm dứt lỗi lầm. Người này không đi về con đường trí tuệ của tâm linh.
Sám hối hời hợt, ngoài da: Xin lỗi, hạ mình để được việc của mình- tiếng nói xảo quyệt của tâm tham. Muốn vượt qua khó khăn, chịu hạ mình để cho xong chuyện.
“Con xin lỗi, xin tha thứ cho con, từ nay, con không làm như thế nữa!” – Sám hối tận sâu, thiết tha, trong tâm mình, đủ can đảm để chấm dứt tội lỗi này trong tương lai, chỉ có vậy mới có giá trị tâm linh, chỉ có vậy mới tăng trưởng trí tuệ tâm linh! Chỉ có con đường này mới là hạnh phúc chân chính! Ngoài ra, ta hưởng những phù phiếm, ảo ảnh thế gian.
Vô minh của người không có tu tập, là không thấy được tứ đế. Không thấy lý duyên khởi, không thấy nhân quả.
Tứ thánh đế - đây là chân lý mà chỉ bậc thánh mới nhìn ra được.
Khổ đế: 2 tâm sân
Tập đế: 8 tham
Diệt đế: Niết bàn
Đạo đế: Bát chánh đạo
Do tham mà ra sân, do dính mắc vào điều mình ưa thích, nên mới sanh ra sự buồn bực, bất toại nguyện, tức tối, giận hờn, lo lắng, buồn rầu,…
Đây là chân lý.
Tâm bức xúc, nóng nảy, khổ não, bất an, đây là khổ. Đây là sân đang nhóm họp, đang tiến dần đến sân độc, tiến dần đến sân ác, sẽ tạo nên tội lỗi.
Con đường không thể khác: Sân>> Sân độc>> Sân ác>> Tạo tội lỗi!
Tu tập là để khi tâm khởi sân, sân độc, sân ác, là biết liền, và dừng ngay!
Nếu không, các cấp độ sân trong tâm sẽ đẩy ra thành lời nói, thành Lời nói cho người khác biết; thành Lời nói trong tâm, thì thầm, giục giã, tiếp đến, xúi giục, mưu mô chuẩn bị cho hành động bất thiện. Lôi dần các ô nhiễm, hiển lộ, tăng thêm dần về cấp độ. Tâm này hả hê, thỏa thích trong điều đó. Đó là hạnh phúc ma vương.
Có những chúng sinh rất thích hành hạ người khác. Xin lỗi. Lại hành hạ tiếp. Thì đây chính là biểu hiện của ma vương! Ma vương xin lỗi: Sự xảo trá của tâm tham!
Phần đen tối của mình, câu thông với đen tối của ma vương: Tha thứ đi, rộng lòng đi, cảm hóa đi – Nhưng khi tỉnh táo, thấy mình không thể làm được! Đây là hoàn cảnh rất khó khăn để nhận biết Ma vương. Mình nên tha thứ, mình nên rộng lòng, nhưng mình không nên để phần đen tối câu thông với họ. KHông ở cạnh họ, là cách giải quyết tốt nhất!
Tất cả khổ đau, bắt nguồn từ tâm Tham!
Mình mong cho ai cũng hạnh phúc, ai cũng an lành. Khi thấy họ khổ đau, mình rất đau buồn, muốn cứu, mà họ không theo, không nghe. Mình làm gì được? Mình không thể buồn vì khi mình không làm gì được như vậy! Phải biện biệt được tình yêu thương này!
Không dính mắc bất cứ điều gì, mới là hạnh phúc chân thật!
Mọi khổ đau đều có thể diệt được vĩnh viễn. Vĩnh viễn đây, chính là trong sạch thuần khiết vĩnh hằng, pháp vô vi, chân đế vô vi, Niết bàn an vui.
Phương pháp tu tập để có hạnh phú chân thật viên mãn, vĩnh viễn: Phát sanh 8 chánh đạo trong tâm.
Vô minh là không biết tứ đế. Hoài nghi là không biết nhân quả, không biết 8 chánh đạo, không hiểu, nên hoài nghi. KHông hiểu duyên khởi, không hiểu thập nhị nhân duyên.
Tất cả các pháp có mặt là vì có nhân duyên. Không có gì là ngẫu nhiên. Đó là một chuỗi nhân quả, đưa tất cả chúng sinh vào con đường luân hồi, vì trong tâm mỗi chúng sinh còn phần ô nhiễm. Tâm ô nhiễm dẫn chúng ta đi trong luân hồi. Con đường 12 nhân duyên chỉ ra quy trình luân hồi của chúng sinh trong dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Hầu hết các chúng sinh chưa tu tập, thì tái sanh trong dục giới. Chư Thiên, Người, 4 cõi khổ.
Sầu bi khổ ưu não là quả của luân hồi! Chưa phải là bậc Thánh, thì chúng sinh nào cũng đang trong vòng khổ mà thôi!
Nhìn sự đời khổ, mà chìm trong khổ, thì không phải là người tu. Thấy khổ, kiên quyết, quyết tâm đi trên đường bát chánh, chắc chắn thoát khổ lần lần.
Tâm thiện ly trí: Làm từ thiện, nhưng không nghĩ ngợi gì.
Tâm thiện với suy nghĩ mong có quả lành: Thiện, lậu hoặc vô minh bớt dần, nhưng dính với tục sản, tâm thiện cho quả lành, vì vậy vẫn luân hồi (để còn nhận quả lành)
Tâm thiện với suy nghĩ đơn thuần từ bi.
Bố thí, phục vụ, hành giới: Sanh thiên 6 cõi, chư Thiên dục giới.
Lậu hoặc vô minh có, nhưng cấp độ khác nhau. Càng nhẹ càng luân hồi tiến hóa, càng nặng càng thoái đọa. Con đường tu tập không mềm mại, nhẹ nhàng, một hướng, sẽ lên lên xuống xuống, tùy thuộc vào sự tích lũy của nghiệp từ vô thủy kiếp.
Lậu hoặc, vô minh còn, luân hồi còn.
Vô minh duyên hành. Hành thiện hoặc bất thiện, Phúc hành hoặc Phi phúc hành. Phi phúc hành là những pháp đưa đến sự luân hồi trong thoái đọa. Phúc hành đưa đến tam giới, chứ không đưa đến giải thoát. Khi nào đi vào thiền Vipassana, để phát sanh tuệ giác, thì tuệ giác phát sanh mới đưa đến giải thoát.
Trong tâm các vị tu thiền Vipassana có Bát chánh đạo. Con đường luân hồi có hướng chấm dứt. Quý vị chứng đắc thì có nhân vô tham, vô sân, vô si mạnh. Các Ngài có trí tuệ tâm linh cao.
Hễ có duyên với nhau, thì dù trong thuận hay nghịch cảnh, họ vẫn tới với nhau. Hoàn cảnh chỉ là duyên cớ mà thôi.
Quy định luật nhân quả mãi mãi còn, chừng nào ta chưa thoát khỏi luân hồi.
Điều gì sinh ra Vô minh?
Không khi nào là quá trễ để học tu, để biết Chánh pháp! Còn 1 giây để sống, cũng sẵn sàng bước lên xe pháp để tu tập!
Vô minh duyên với Hành, là ý hành, khẩu hành, thân hành; là các tâm sở. Hành thuộc về ý có ý nghiệp, về khẩu là có khẩu nghiệp, về thân là có thân nghiệp. Ý nghiệp khi phát sinh thì trổ liền trong tâm, cực nhanh.
Vô minh dẫn đến Hành. Thanh tịnh đạo: Với sự sanh khởi của lậu hoặc có sự sanh khởi của vô minh. Lậu hoặc là các pháp ô nhiễm rỉ chảy.
Những màu sắc cảm xúc làm cho cuộc đời thoái đọa trong luân hồi. Càng cao danh vọng, càng dày gian nan. Tin tưởng khắng khít với ai nhiều chừng nào thì khổ đau tăng theo cấp số nhân. Ai cũng biết, chỉ vì không lưu ý thì không thấy rõ.
Tâm còn bợn nhơ, gồm đen trắng, thiện và bất thiện, ra quả thiện và quả bất thiện, có những quả có năng lượng đưa đi tái sanh, đây chính là Vô minh duyên Hành, hành duyên thức. Thức cho đi tái sanh. Tâm quán sát thọ xả quả bất thiện vô nhân.
Khi biết rõ sống với ma vương, tách không được, là do tận sâu thẳm, mình còn nối với ma vương.
Phước là khi còn sanh tiền, biết đâu là đường tới đúng, biết đâu là đường tới sai.
Môi trường đời là nơi để ta phát huy sự tốt đẹp hay xấu xa của mình! Là nơi để hiển lộ bản chất tốt đẹp hay ô nhiễm của chúng ta.
Không có ai là tất cả cuộc đời đối với mình. Ai cũng là người cùng mình làm tròn vở kịch. Mỗi diễn viên phải lột tả được vai trò của mình. Viết kịch cho mình, không phải diễn theo người khác. Nên, quả cũng do mình tạo ra. Quả Thiện có năng lực đưa chúng ta tái sanh nơi tương ứng với tâm thiện của mình.
Quán sát thọ xả quả thiện vô nhân: Em bé ra đời tật nguyền, thiếu khuyết. Để người cha, mẹ khởi lên tâm từ, tâm bi.
Mình buồn, là mình nhỏ giọt a xít xuống đời mình! Tâm này cản trở con đường tiến hóa của mình! Mình thấy mình héo mòn buồn tủi, thì đường tái sinh của mình thoái đọa là chắc chắn! Thức sanh danh sắc, là đây! Ta vui, ta an lạc thì tái sinh sẽ đẹp đẽ hơn!
Huệ mạng là quan trọng, không mê muội, mờ tối dẫu trong 1 phút! Không có ai là quan trọng với mình, chỉ có tấm thân huệ mạng của mình mới quan trọng nhất!
GiỚI thứ 5 làm ta thoái đọa đời đời!
Ta có trách nhiệm với huệ mạng của ta.
Chúng sinh còn trong tam giới, thì ô nhiễm tâm chính là tham, sân, si, phối hợp với 14 sở hữu bất thiện. Cách hiển lộ, quyến rũ, hoành hành, như ma lực trogn tâm chúng sinh chưa nhập dòng thánh, diễn ra trong 9 nhóm tâm bất thiện.
Ta như chim với 2 cánh: thế gian và tâm linh.
Phước lành thay khi ta được học Phật pháp. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ta cũng hướng thiện và hướng thượng.
Đạo Phật dạy Ta tu tập trong từng giây phút, sửa mình trong từng giây phút trong đời sống. Đạo dạy ta phải quan sát, thấy biết từng chút thân, khẩu, ý trong từng sát na thời gian. Khi ta an trú trong mọi hành vi, là hướng thiện; khi trong thời gian đó, ta an trú trong pháp chân đế, hoạt động của tứ đại, ta đang hướng thượng. Ta đủ phước để hướng thiện và hướng thượng ngay tại từng giây phút đời thường. Ta đi trên con đường này, là đường an vui lâu dài. Con đường này là con đường duy nhất đi đến Niết Bàn! Ngoài ra, là luân hồi ô nhiễm, khổ đau.
Hành: Phúc hành, Phi phúc hành, Bất động hành
Phi phúc hành, kết hợp với các pháp ô nhiễm, đưa đến con đường luân hồi thoái đọa: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la.
Phúc hành, đưa đến luân hồi trên đường tiến hóa tâm linh;
Khi người thân hấp hối, chết, ta không khóc! Vì khi lâm chung, khóc, là níu kéo, câu thông họ xuống cõi buồn đau, sợ hãi, tiếc nuối, làm cho ô nhiễm tham sân si này càng tăng trưởng. Làm cho người thân càng ngày càng xuống thấp, tâm ô nhiễm càng nặng.
Khóc: Tâm sân
Buồn chia lìa: Sân
Tiếc thương nhau, mất mát: Hối
Áy náy vì còn nhiều điều không làm, chưa làm với người chết: Hối
Khóc do luyến ái: Sầu bi khổ não,
Như vậy, khóc, là làm gánh nặng cho sự tái sinh của người mất
Sau đó, thay vì làm phước hồi hướng cho người mất, thì lại cúng kiếng, xin phù hộ suốt! Thật là ngược!
Đúng pháp là tu tập, làm phước, hồi hướng cho người mất!
Muốn hết đau khổ, chữa bệnh luyến ái!
Người có khả năng làm mình đau khổ, chính là người mình dính chấp mắc, yêu họ quá
Người ta kết nối, dính lấy nhau bằng con đường luyến ái hoặc oan trái, gốc từ tâm tham mà ra!
Cường độ ái nhiễm, sân hận, si mê làm cho kho chứa kết thành dấu in đậm. Càng đậm, càng khổ.
Mong cho khi mình chết, đừng ai làm cho tâm tham sân si của mình khởi lên!
Khi mình biết đời mà không biết tâm linh, thật đau khổ
Có chồng, vợ, là muốn gánh nợ.
Không biến các mối quan hệ thành gánh nặng. Gánh nặng này sẽ làm ta tái sanh bằng tâm tham sân si.
Sống tận hưởng, chính là sống trong sự khao khát. Do tâm tham sai khiến.
Khi tham lên đỉnh điểm, si cũng lên đỉnh điểm. Khi họ chết trong khi tận hưởng, thì con đường thoái đọa là khó thoát.
Những người phạm giới 5, tái sinh, rất thiếu hiểu biết, mắt đờ đẫn, đây là tâm si. Cần nghe học pháp thật nhiều.
Chết khi tà dâm, tái sinh dễ bị động kinh, không thể bình thường.
Chết khi xài ma túy, tái sinh khó có thần kinh khỏe mạnh.
Không tận hưởng dục lạc! Không hưởng thụ các chất gây say, gây nghiện! Không hủy hoại đời sống tâm linh!
Lửa dục phát sinh, chiêu cảm vong đến!
Khao khát, mơ tưởng tình yêu tình dục thì cũng dễ chiêu cảm các vong đến!
Không phạm giới thứ 5, có thể gây ra lỗi thần kinh, gây ra thiếu sót trong sự phát triển toàn diện của kiếp mới tái sinh.
Thọ khổ, thọ lạc, thọ xả. 3 cảm thọ chính.
Khổ thân là thọ khổ, khổ tâm gọi là thọ ưu.
Lạc thân, lạc tâm – thọ hỷ
Xả không khổ, không lạc. Không hỷ, không ưu.
Khi các căn tiếp xúc các trần, thì phát sinh thọ khổ, lạc, xả.
Cảm thọ là hoạt động của sở hữu thọ. Hoạt động trong 121 tâm của chúng sinh khắp các cõi và các bậc Thánh. Hành trì pháp Niệm Thọ, lúc đầu chỉ là cảm thọ, khi thấy đầy đủ, sẽ biết thọ ở đâu, ở nơi hỷ, thiện, ưu, xả…
Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ,
6 triền cái, 6 pháp ngăn che, làm tâm khó đi vào đường thiện lành: dục, sân, hôn thụy, trạo hối, hoài nghi, vô minh.
Bộ tham sân si luôn đi cùng nhau, tỉ lệ khác nhau mà thôi.
Si ở đâu, ô nhiễm ở đó.
Si luôn đi kèm vô tàm, vô quý, phóng dật.
Mê muội phát sanh, luôn tạo ra lỗi lầm, tội lỗi, thì khuynh hướng bất thiện pháp luôn tiến tới, không lùi bước.
Âu sầu, buồn bực, oán ghét. Nhưng không dừng được. Khi bùng nổ ra, là hối.
Sân, tật, lận, hối.
Si bắt nguồn từ vô minh. Che khuất tâm, đi từ chúng sinh dục giới, tập khí có 2 dòng trong và đục, chư thiên dục giới, súc sinh dục giới, a tu la dục giới, ma quỷ, địa ngục. Khi vào thế giới của Phạm thiên, đại Phạm thiên, đắc thiền sắc giới, vô sắc giới, vô minh vẫn có mặt. Khi ô nhiễm trong tâm vẫn còn, dù nhỏ nhít đến mấy, nhưng gặp khi bung ra, trở thành pháp bất thiện, nó cũng không lường như phàm phu mà thôi! Một niệm sân cháy cả khu rừng công đức. Đây là câu nói áp dụng cho tất cả các cõi giới, trừ khi vị ấy là A la hán.
Chừng nào chưa tu thành A la hán, nếu không cẩn thận, ta sẽ trở thành nô lệ cho pháp Bất thiện, khi gặp đủ duyên, sự khó chịu, bực bội, lo lắng,… vẫn khởi sanh,… Ta cần phải tinh tấn siêng năng tu theo chánh pháp, để điều phục tâm. Sáng được lúc nào, may phước lành chừng ấy.
Không dám tuyên bố định lực nào của mình, hễ hé, là tâm ngã mạn nổi lên!
Bợn nhơ còn ngay trong tâm của những bậc Thánh, trừ A la hán.
Dòng tâm thức cũng hoạt động trong nhân quả. Từng giây phút cũng tạo nghiệp. Tâm nhân phát sanh, tâm quả trổ liền trong tâm.
Hành thiền ko phải để an lạc, hành thiền để tăng năng lực quan sát những đối tượng phát sanh trong tâm.
Vi diệu pháp để lại cho những vị hành thiền Vipassana.
Trước tu, ta Soi mói người khác để chỉ trích. Giờ được học Vi diệu pháp hiệp thế rồi, ta quay về soi sáng tâm mình, quan sát nơi chính mình, chuyển đổi tâm tính của mình.
Mình ra sao thì thế giới như thế ấy.
Thức đưa đi tái sinh.
Phiền não nếu chiếm lĩnh trong tâm chúng sinh không nhận ra tai họa của mình, nó sẽ biến trong tâm thức một trạng thái cực kỳ lạ lùng, nghiện nỗi buồn của mình: Thường xuyên quay lại nỗi phiền muộn của mình.
Chúng sinh rất dễ nghiện phiền não.
Đó là kiết sử đang chỉ huy trong tâm - Hạnh phúc của ma vương – ma vương ở trong tâm, đang thưởng thức những thứ phiền muộn. Phiền muộn là thức ăn của ma vương, là sự thú vị của ma vương. Ta hạnh phúc khi ma vương bị mất đất! Ta để phiền não trong tâm, là ta mở cửa cho ma vương ngự trị trong tâm! Khủng khiếp hơn nữa, ta uy hiếp, ta gây phiền não cho người khác, chính ta là ma vương!
Không để cho ô nhiễm trong tâm có cơ hội thảy ra, tung ra, bung ra, phát triển ra, đó là yêu mình, yêu người, yêu đời! Đó là con đường đi của bậc Tinh hoa!
Thảy ô nhiễm ra bên ngoài, nghĩa là có ý cùng nhau đọa cảnh khổ cho hiện tại và tương lai!
Khủng khiếp hơn nữa, dù đã thảy ô nhiễm cho nhau quá khủng khiếp, nhưng vẫn quay trở lại. Ma vương đã nghiện ma vương. Để đi trong luân hồi cùng nhau.
Cứ có tiếp xúc, mới có cơ hội cho nhân quả của nhau phát sinh. Nhân quả của mình phát sanh, là do tiếp xúc, giao lưu, đụng chạm. Hiển lộ bằng 2 con đường: Xúc>>Thọ >> Vừa ý hay không vừa ý; Khổ hay ưu; Lạc hay thọ; Nếu tiếp xúc, thọ là ái, hỷ, lạc, tâm sẽ duy trì, muốn ôm lại, giữ luôn. Hình thành đời sống chúng sanh cõi dục. Mặt đẹp đẽ: Đáp ứng nhu cầu thọ hưởng dục lạc thế gian.
Mặt còn lại: Đắp chăn rồi mới biết chăn có rận. Xuất phát không vừa ý, trách móc, đòi hỏi,… Khó chịu phát sinh,… Kết sợi dây oan trái đối với nhau!
Hôn nhân đi bằng 2 con đường. Mật bên ngoài, a xít ở bên trong. Người ta vẫn yêu thương, vẫn trách móc. Vẫn giận mà vẫn thương. Đây là mâu thuẫn thể hiện hoạt động giữa thọ và ái.
Ái sinh Thủ. Thủ là nắm giữ. Nắm giữ khác với giữ gìn. Nắm giữ là tà kiến. Giữ gìn là hạnh lành. Những gì yêu mến thì không nhả, không buông, không rời, dính chặt. Hoặc, nghĩ là nhả ra, nhưng không phải nhả. Hoặc ái giữ chặt, hoặc tống ra, đạp ra, hủy hoại. Nhưng dù gì vẫn có sự xúc chạm, vẫn có xúc chạm, nhưng ấp ủ ái dục, hay đánh đập Thủ kết oan trái cột chặt trong luân hồi.
Ái luyến ái ấp ủ, hoặc Ái oan trái cột chặt!
Ái thủ luôn đi 2 mặt.
Vô minh và Si phủ trùm, bao trùm, khi là vùng mờ, khi là vùng đen, khi là vùng xanh đỏ…
Người trong cuộc sẽ sống bằng cảm xúc trong tâm là cảm thọ đi theo tưởng điên đảo.
Sống với cảm xúc, thì tưởng là sáng suốt, nhưng thực chất không hề!
Luân hồi qua nhiều kiếp sống, khuynh hướng thọ hưởng, sở thích, đam mê, luyến ái,… những tưởng đã cấu kết trong tâm.
Luôn cảnh tỉnh bản thân, việc này đưa đến thiện lành hay không, có phạm giới không?
Hữu là thai bào của nghiệp. Do hành, do nghiệp của mình tạo ra. Nhìn quả hiện tại, biết nghiệp của mình. Nhìn bất hạnh, biết pháp ô nhiễm, nhìn quả lành, biết pháp thiện lành.
Nghe pháp chăm chú, không bỏ giữa chừng. Hiểu được đến đâu, thiện trí phát sanh đến đó.
Thói quen nghe pháp cũng quyết định quả nghiệp. Nghe chăm chú, tập trung, để quả trí tuệ thêm phần trọn vẹn.
Không để phóng dật diễn ra trong khi học tập, nghe pháp. Cách này, phước trí giúp ta đầy đủ, trọn lành.
Sở hữu tưởng làm bậy được, làm đúng được.
Người tu tập để có túc mạng thông, thì sở hữu tưởng phải đúng đắn, chính xác.
Không bao giờ làm gì quá mức mà cơ thể, đời sống tinh thần còn sáng suốt. Quá đi, thì thông tin sẽ mờ ảo, si phát sanh, sở hữu tưởng lẫn lộn, khi nhớ lại, sẽ rơi vào vùng mù sương.
Làm việc chăm chỉ, kiên trì,
Thai giáo: Từ khi hoài thai, hai vợ chồng không sinh hoạt vợ chồng, không bừa bãi trong quan hệ nam nữ, không tà dâm trong quan hệ vợ chồng chân chính. Tập trung nuôi dưỡng thai bào, cho em giá trị tâm linh, bồi bổ tâm linh cho em. Cho em, và cả gia đình cùng làm phước thiện, phước trí ngay từ khi hoài thai. Đây là nhân, mình sẽ giúp oan trái giảm xuống, giúp thuận duyên tăng thêm. Em bé sẽ là châu báu của gia đình!
Thủ Duyên Hữu. Hữu Duyên Sinh. Sinh là hình thành thai bào. Hài nhi ra đời. Kết thúc bằng Tử. Tử gồm đầy đủ Sầu, ưu, khổ, già, bệnh, chết. Ai có bệnh, già, chết là người có phước.
Dẫu sinh, già, bệnh, chết là con đường đi của Khổ, nhưng bản thân việc một chúng sinh đủ phước duyên làm người, trải qua đủ các giai đoạn, đã là một phước lành lớn – vì chúng sinh đó có cơ hội tu tập, quán chiếu, nhận thức rõ các chúng sinh đều đi trên đường sinh tiến dị diệt, nhận thức rõ để chọn lựa con đường hướng thiện, hướng thượng! Sống trong hiểu biết về các quy luật của đời sống tâm linh. Một đời sống là một trường học để phát triển tâm linh. KHông chấp đau khổ khi nhìn thấy quá trình hoại diệt của mình và khắp chúng sinh. Biết và cảm nhận được khổ, vô thường, vô ngã; biết và chứng ngộ được những chân lý của cuộc đời!
Vòng tròn 12 nhân duyên phát sinh, chứa các điểm: Vô minh>> Hành >> Thức >> Danh sắc >> Lục nhập >> Xúc >> Thọ >> Ái >> Thủ>> Hữu >> Sanh, >> Lão tử
12 nhân duyên, còn gọi là Thập Nhị Nhân Duyên, là một khái niệm quan trọng trong Phật giáo, giải thích về vòng luân hồi và nguyên nhân của khổ đau. Nó chỉ ra sự phụ thuộc lẫn nhau của các yếu tố tâm-vật, cho thấy mọi hiện tượng đều có nguyên nhân và điều kiện để phát sinh.
12 nhân duyên bao gồm:
Vô minh (Avijja): Sự vô minh, sự không biết, sự che khuất về sự thật.
Hành (Sankhara): Hành động, tạo nghiệp, và các hoạt động tạo ra karma.
Thức (Vinnana): Thức, một cái nhìn về sự tồn tại, sự nhận thức.
Danh sắc (Nàma – Rùpa): Thân và tâm, thể hiện sự kết hợp của các yếu tố hữu hình và vô hình.
Lục nhập (Chabbihàna): Lục nhập, sáu giác quan.
Xúc (Phassa): Sự xúc chạm, tương tác giữa các giác quan với môi trường.
Thọ (Vedàna): Các cảm giác, trải nghiệm cảm xúc (hạnh phúc, đau khổ, trung tính).
Ái (Tanhà): Ký vọng, sự ham muốn, sự luyến tiếc.
Thủ (Upàdàna): Sự bám giữ, sự nắm giữ, sự chấp vào.
Hữu (Bhava): Sự có, sự tái sinh, sự tồn tại.
Sinh (Jàti): Sự ra đời, sự tái sinh.
Lão tử (Jarà – marana): Sự già, chết, và khổ đau.
Ý nghĩa:
12 nhân duyên cho thấy sự liên hệ giữa các yếu tố và giải thích tại sao khổ đau lại xuất hiện. Khổ đau bắt nguồn từ sự vô minh, và thông qua các hành động, chúng ta tạo ra karma và các nghiệp khác, dẫn đến sự tái sinh và khổ đau trong vòng luân hồi.
Trong Phật giáo:
Nam tông:
Thuyết 12 nhân duyên được dùng để giải thích nguyên nhân của khổ đau và sự vô ngã của các pháp hữu vi.
Bắc tông:
Thuyết 12 nhân duyên được dùng để chứng minh sự không thật của sự vật và tính Không.
Dòng thiện lành, Dòng ô nhiễm phát sinh từ vô lượng kiếp!
Một pháp bất thiện khởi lên trong tâm, luôn có nguyên tắc kết hợp, phối hợp với sở hữu tự tha, những phần bất thiện sinh ra vẫn phát sanh trong tâm từ vô lượng kiếp, mang theo các kiếp, gọi là tập khí. …
Vậy ô nhiễm trong tâm mình là gì?
Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời. Thực ra có thể dời được, với điều kiện chủ nhân thật sự thật tâm muốn đổi thay, sau khi đủ nhân duyên thay đổi nhận thức, đủ hiểu biết về nguyên tắc hoạt động của tâm thức.
Ta học hỏi, hành trì, để chuyển hóa tâm thức, thiết lập năng lực quan sát, minh sát, quán. Những năng lực này có thể làm cho những bản tính cũ thay đổi. Tập khí cũ được chuyển hóa.
Nhân kích thích, tác động các căn, kích hoạt tâm để ô nhiễm phát sanh, có sự tương ưng. Kích thích trực tiếp, còn chất nổ đã có sẵn trong tâm. Trong tâm, những ô nhiễm là khối chất nổ chứa chất từ muôn đời muôn kiếp. Trong hệ thần kinh cũng tương ưng, cả về danh pháp, sắc pháp. Đây là nhân tiếp nhận sự kích thích, phản ứng giữa nhân ở trong và cảnh bên ngoài, chở theo tập khí của chính chúng sinh đó. Hình thành ở đâu, hàng ngày các căn tiếp xúc các trần, trở thành tâm quả có sẵn trong tâm. Nó đã tác động vào hệ thần kinh, làm biến dạng cấu trúc sắc pháp, đó là dấu hiệu hình thành sắc pháp trong đời tới.
Các pháp ngủ ngầm có thể phát sanh khi hội đủ điều kiện. KHông thể phát sanh khi chúng ta không tạo điều kiện thích hợp để nó phát sanh.
Khi nhất tâm, cột tâm vào đề mục thiền, bảo vệ được tâm, gìn giữ, ngăn chặn điều kiện làm cho các pháp ô nhiễm, ngủ ngầm phát sanh.
Kiểm soát tâm để phóng dật khó phát sinh. Chánh niệm làm cho phóng dật không phát lên. An trú trong đề mục, thì phóng dật – si – vô minh không có cơ hội phát sinh.
Giữ gìn tâm chánh niệm là cách để thoát khỏi các pháp ngủ ngầm.
7 tùy miên, thể hiện ở các khuynh hướng. Hướng thượng (thiện), hướng hạ (ô nhiễm)
Nhìn Khuynh hướng thọ hưởng dục lạc – biết nơi mình sẽ tái sanh. Biết sai mà vẫn không đừng được, đây chính là tâm si trong tham sai khiến. Ma vương tiếp tục!
Xin cho phước báo mà con đã trong sạch làm đây, những tâm thiện đã khởi sanh, trổ sanh quả thiện, quả trong sạch, quả chứng đắc, khi có mặt, thì pháp thiện trong tâm được tăng trưởng, như thế những pháp bất thiện ngủ ngầm không có cơ hội có mặt. Nên giá trị của việc thiện, ngăn được những ngủ ngầm tăng trưởng và theo ta bao nhiêu kiếp sau – chừng nào chưa chứng Thánh!
Pháp bất thiện ngủ ngầm nơi tâm ta, chỉ chực chờ khi nào ta mất chánh niệm, chú tâm, tỉnh giác là phát sinh, là kéo tuột, lôi chúng ta xuống địa ngục đau khổ.
Nhiệm vụ của ta thấy ra những gì bất an. Tâm phán đoán là quyền lựa chọn của mỗi người. Không chọn gì cũng là một lựa chọn. Cũng đã là tạo nghiệp. Chúng ta có quyền chọn lựa. Chúng ta đã đi trên con đường đúng từ vô lượng kiếp, nên chúng ta mới được làm người. Nên, ta phải giữ gìn huệ mạng trong mọi hoàn cảnh. Ta phải có trách nhiệm đi trên đường lành, để cứu mình, cứu người, cứu đời.
Tất cả cùng tiến hóa. Những gì xung đột, bất an, băng hoại, bệnh hoạn, phải từ chối! Không sống chết với ai cả! Không lý tưởng nào tốt đẹp hơn là lý tưởng thiện lành, từ bi, trí tuệ. Đây là định hướng thuộc về tâm linh. Tất cả quy ước, đi ngược lại, đều phục vụ cho chúng sinh cõi dục giới, không thăng tiến con đường tâm linh cho chúng sinh! Nghĩ rằng, ai thuộc về ai, chỉ là ảo ảnh. Ai thuộc nghiệp của người đó mà thôi! Chúng ta không ở với nhau mãi mãi. Chỉ là ước vọng mà thôi! Cái ta tạo ra trong tâm thức, thiện lành hay bất thiện – là của ta mà thôi!
Chúng ta nương nhau để tạo điều kiện trổ sanh các pháp thiện lành. Để tất cả cùng tiến hóa.
Thứ thuộc về thế gian, là vùng hoạt động của tham sân si.
Dẫu ta chưa thành Thánh, thành Phật, nhưng ta đã có con đường phải đi, nên đi, duy nhất, định hướng thật chắc cho con đường trong tâm của chúng ta, dẫu cho thân hoại mạng chung, là chúng sinh nào, chúng ta cũng tìm tới đường thiện lành mà đi, hướng thượng mà đi, tìm đến thiện lành mà sống, tìm đến nơi tu tập mà sống, không rời bỏ con đường hướng thiện và hướng thượng.
Các pháp bất thiện hiện ra từ sự thọ hưởng dục, bao giờ cũng đê hèn.
Về mặt cảm thọ, xuất hiện trạng thái nặng nề. Hưng phấn rồi nặng nề. Hai trạng thái đối nghịch nhau, đi theo đồ thị hình sin. Nặng nề, u mê, trì độn, là quả. Là yếu tố tạo nên những pháp ngủ ngầm trong ngày vị lai.
Sự khao khát trở nên ám ảnh tâm trí, khao khát thọ hưởng dục lạc làm nên một chúng sinh nơi cõi quỷ đói trong cảnh hưởng thọ đó. Quỷ khát danh, tiền, tình, ăn, uống, ngủ, nghỉ, … không bao giờ dừng nghỉ. Như thế, không bao giờ chúng sinh đó trở lại làm người được?
Khi không giữ mình trong thiện pháp, chúng ta mở cửa cho quỷ đói trong tâm hiện hình.
Chúng ta sinh ra làm người, là phước lành. Nhưng những pháp ngủ ngầm có sẵn trong ta, phá hủy, làm ta thoái đọa, 7 pháp ngủ ngầm, 7 pháp tùy miên, quần thảo trong tâm ta, chỉ chờ cơ hội trào lên, kéo tuột chúng ta xuống cõi khổ! Chúng ta dễ dàng thoái đọa hơn là thăng tiến phát triển. Hãy nhìn xem, số những người cao quý trong thế giới, nhiều hay ít? Cao quý, tiến hóa, tinh hoa, hay thoái đọa, hạ liệt, u mê tăm tối? Đây là lựa chọn của mỗi con người, mỗi chúng sinh!
Tâm đời của chúng ta thường hay hướng ra bên ngoài. Có khuynh hướng hướng ngoại. Hướng ra bên ngoài.
Thấy đối tượng bên ngoài tốt hay xấu thì chúng ta có lời khen, chê; chỉ trích; ta dùng tâm quan sát để thấy các pháp, có phải là thiện với đầy đủ chi pháp, bất thiện cụ thể ra sao, ta thấy các hoạt động,
Các pháp thiện tăng trưởng thì ngủ ngầm không có mặt.
Đây là 7 con quỷ trong tâm: Dục ái, Hữu tùy miên, sân, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi, vô minh (tùy miên)
Phải tách bạch 2 con đường thiện hay ô nhiễm, xử lý sớm!
Sự thọ hưởng dục lạc thế gian thông qua ngũ căn. Chúng sanh thích thú, nắm giữ, tái thọ hưởng, đam mê – dục ái tùy miên đã phát sanh lên trong tâm.
Thọ lạc thọ hỷ đều nằm trong tâm.
Muốn xuống cõi Nhân để hành trì, tu học tiếp. Mới mang theo khuynh hướng ly dục, chưa phải diệt dục. Thọ hưởng dục lạc còn ngủ ngầm nơi tâm. Khi có điều kiện sẽ câu thông và phát sanh. Tham ái thất bại sẽ thành sầu muộn, sợ hãi, buồn thương nhớ>> Cô đơn>> Ô nhiễm ngủ ngầm thuộc về sân phát sanh, mũi tên sầu muộn đã bắn vào tâm tư, khiến suy sụp về thể chất và tinh thần. Phần ô nhiễm bắt đầu lan ra, trùm khắp. Khi gặp lời dạy của đức Phật, vô minh đã tan biến! Xóa sạch nhơ bợn. Đắc quả dự lưu. Nếu không có giáo pháp, ta phải chờ lâu lắm mới vượt vũ môn nổi. Phải có sự hộ trì của Chư Phật, Chư Thiên để tâm ta được sáng suốt, minh mẫn, có trí tuệ tâm linh. Ta cần có ba la mật đầy đủ, ta có năng lực tâm linh, chạm được tới vùng vòng xoay phát sóng của Quý Ngài, ta nhận được lực của Quý Ngài, ta có cơ hội thăng tiến tâm linh.
Ma lực, ô nhiễm tâm sẽ dẫn chúng sinh vào chốn u tối, địa ngục, quỷ khổ, súc sanh, a tu la! Chừng nào còn trong luân hồi, tâm ta còn có ô nhiễm. Chừng nào còn ô nhiễm tâm, ta còn luân hồi. Tham, sân, si còn nguyên trong tâm, ta còn luân hồi. Ô nhiễm ngủ ngầm trong tâm, tiềm ẩn khả năng hiển lộ ô nhiễm, câu thông kết nối với điều kiện bên ngoài để nó hiển lộ rõ ràng ra.
Tứ trầm, tứ bộc, tứ kết, tứ phược, tứ thủ, thất tùy miên.
Ngã mạn ngủ ngầm: Tự tôn, tự ti, kiêu hãnh, kiêu ngạo, tự cao, mặc cảm, tự hạ mình trong đau khổ sợ sệt nghĩ mình kém cỏi và buồn vì việc đó; Tất cả do sự so sánh tự ngã với các ngã khác – tha ngã.
So sánh các cấp, các loại, đều là hình thái của Ngã mạn, 9 cách.
Tham Hỷ đi đến quá lố. Khi có ngã mạn khởi lên, tâm ta mất quân bình.
Quá tự hào về điều gì, đều dẫn đến tai họa!
Tự mãn là đọa! Tự cao, tự ti đều đọa, so sánh là đọa!
Tâm so sánh, phân biệt: Đọa
Ta không đủ phước báu tâm linh, nên ta còn so sánh.
Làm điều thiện lành thì tâm an, trí sáng! Làm thiện để giải năng lượng lành của ta! Mình sẽ tiến hóa khi mình thiện lành! Mình tạo sự trong sạch trong tâm, để tăng tất cả chỉ số an lạc, hạnh phúc! Càng trong sạch, càng hạnh phúc!
Hoạt động tâm thức, và tất cả mọi sự vật, sự việc trên thế gian đều thay đổi theo thời gian, không gian, hoàn cảnh,…
Ta cứ gây lộn nhau, nếu biết giây sau họ chết, mình còn muốn gây nữa không?
Người khác chét, mình không chết, thường kiến.
Nổi giận là đoạn kiến phát sanh. Chết là hết. Miễn thắng là ok, ra sao thì ra, không muốn nghĩ đến hậu quả.
Giới cấm thủ, chấp vào nghi thức đúng tuyệt đối, cũng là không phải chính kiến.
Hoài nghi: Sự do dự, cấp do dự, phân vân, luẩn quẩn, rối ý, không xác định, thiếu quyết đoán, lay động tâm,.. Hoài nghi ân đức Tam Bảo; hoài nghi Giới định tuệ; Hoài nghi Bát chánh đạo.
Rắn, Ngủ, súc sanh: Tâm si điều khiển
Trùn, đào hang: Tâm si điều khiển, không nghe pháp
Tâm chuyền cành, vui với sự lay động
Ngó trên trời, làm nghề chiêm tinh, chỉ coi trăng sao, không nghe pháp
nghiên cứu tụng đọc kinh kệ, nên thích thú, nên lắng nghe được.
Giáo lý của đức Thế Tôn là khó nghe lắm. Không nghe tên Tam Bảo nên không thể nghe giáo pháp. Trong vòng sanh tử luân hồi chỉ nghe tiếng nói của súc sinh, tiêu phí thời gian trong ăn chơi múa hát ăn uống nên không thể nghe giáo pháp. Gia đình tin giáo pháp, nhưng nhiều sắc màu khác nhau. Có người từ chối, vì căn cơ của họ chưa có đủ, phước báu chưa đủ, phước trí chưa mở, nên chưa nghe được giáo pháp. Không nghe, sao tin được nhân quả, 12 nhân duyên, luân hồi,… Lý do, vì họ nhiều kiếp ở cõi thấp rồi, nên bị u mê che lấp trong nhiều đời nhiều kiếp.
Không lửa nào bằng lửa tham ái đốt cS hữu tình thừa 1 chút tro; Lửa tham, ngục sân, lưới si, sông ái.
Hoài nghi ngủ ngầm trong tâm.
Phật Pháp là lời nói chỉ rõ đường đi, cách thức tu tập trong đời sống tâm linh.
Lời hướng dẫn làm văn, là lời pháp hành.
Đức Phật khi đủ duyên, Ngài dạy dỗ cho người đó giải thoát khỏi bế tắc. Đây là pháp hành.
Trí tuệ Phật đi xuyên suốt khắp các cõi giới, các Ngài đọc rõ tâm của chúng sinh ở khắp các cõi giới.
Mong có đủ phước để nghe, để hiểu, để hành theo lời Chư Phật dạy.
Học Phật là học chân lý về tâm linh. Càng am hiểu, càng sử dụng để thể nhập chân lý, thấu suốt chân lý. Học để biết buông những điều không tốt đẹp cho đời sống tâm linh, học để phát triển đời sống tâm linh, để rực rỡ tâm linh.
Còn ô nhiễm, còn mơ hồ khi học hiểu hành giáo pháp, còn hoài nghi, còn ở cõi thấp.
Nhưng là người nghi ngờ, không giải mã nghi ngờ, thì lại là người có bệnh hoài nghi, đọa.
ĐP không có điều răn, không có giáo chủ.
Nên tiếp cận học Phật, với con mắt trong sáng, không phải con mắt nghi ngờ dẫn đến mệt mỏi. Không để sự hoài nghi trở thành bệnh hoạn.
Nhẹ nhàng, an vui, thơ thới, khi ta làm việc thiện.
Những người mắt nhìn xa xăm, vô cảm, chìm nghỉm, chính là: Ô nhiễm tiết ra, cộng thêm pháp tham sân si, đưa đến sự chìm đắm trong luân hồi.
Không nên để mình chìm trong suy tưởng về những điều tham, sân, si. Để thoái đọa.
Không bám víu vào bất cứ suy nghĩ, lời nói, hành động làm mình khổ đau: Nhấn chìm ta trong luân hồi. Bám víu là Phản ứng tự nhiên của ma lực, không phải hùng lực. Nó đưa lên luân hồi đau thương.
Luôn lấy tất cả là bài học, cảm ơn bài học!
Nếu có nhân duyên, xin cho con đầy đủ nhân duyên với các bậc Tam Bảo, mãi mãi đi trên đường chân chánh, đời đời kiếp kiếp tỉnh thức, đời đời kiếp kiếp từ bi!
Những pháp bất thiện ngủ ngầm trong tâm + quả bên ngoài = Phát lộ ra nghiệp bất thiện
Phải kiểm soát để đời sống tâm linh đi lên!
Bị nổi khùng khi đụng việc, biết đây là biểu hiện của các pháp ngủ ngầm nơi tâm.
Không hại, bất hại – để tâm dễ vươn lên trên đường tiến hóa tâm linh!
Mình chỉ tốt khi cái ác ngủ ngầm trong mình chưa hiển lộ!
Tất cả những sự phản ứng, trả thù, ác nghiệp, là phương tiện, là cách xử lý của chúng sinh chậm lụt trong đời sống tâm linh chân chính.
Chỉ tới bậc A La Hán mới dứt sạch vô minh.
Thường xuyên kiểm soát tâm, soi lại mình đã nghĩ gì, làm gì, nói gì. Ta rèn luyện năng lượng thấy biết – mạnh lên, mạnh hơn, sẽ tăng khả năng điều khiển cảm xúc. Năng lực thấy biết có khả năng làm giảm nhiệt độ sôi của cảm xúc. Không kiểm soát sự thấy biết, không đè nén cảm xúc, đó chính là ô nhiễm.
Nếu ta coi mọi hoàn cảnh là bài học, ta tìm hiểu những lý do nhân quả. Tại sao tôi ở hoàn cảnh này, tại sao tôi phải gặp người này, tại sao tôi ở cảm xúc này,.. Qua hoàn cảnh này, tôi học được bài học yêu thương nào, từ bi nào, kỷ luật nào. Bài học giải thoát khỏi nỗi khổ niềm đau của tôi là gì?
Chân lý: Tôi làm gì, với tâm gì, thì tôi nhận được chính điều ấy, với tâm lượng ấy, ở tần suất, năng lượng lớn gấp nhiều lần!
Có con để làm gì? Muốn có chúng sinh để thể hiện lòng yêu thương của mình, muốn có người phục vụ mình, làm mình vui, làm mình hạnh phúc, đông vui? Muốn có đứa con đẹp thân nhưng tật nguyền tâm linh? Muốn có hạnh phúc có một đứa con, hay muốn có hạnh phúc của sự hy sinh, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng sinh khác?
Nếu sát hại chúng sinh trong trứng nước, mình sẽ bị sát hại trong nhiều lần, đến khi mình nhận thức được ra lỗi lầm này, sẽ sinh ra em bé trong trắc trở, sẽ sinh ra em bé trong khổ đau, sẽ thấy trực tiếp nỗi đau của em bé trong hoạn nạn tương tự. Ở mãi trong đó, đến khi nào phước của mình cao hơn lỗi này, thì mới thoát. Nên, quá khứ không thể làm lại được, chỉ có hiện tại này giúp mình thay đổi, mình phải sám hối, phải làm các phước nghiệp mang tính chất đối ngược, để giảm nhẹ cường lực của dòng nghiệp sát hại chúng sinh.
Người nữ có phước báo lớn khi mang thai, người nữ có cơ hội để tạo phước.
“Ma đưa lối, quỷ dẫn đường…” – Đây là năng lực của kiết sử dẫn lối, sai khiến.
Ta là nô lệ cho những kiết sử của mình.
Tu là nhận rõ: Những gì khởi lên trong tâm, là pháp thiện hay bất thiện? Bất thiện là kẻ thù, kiết sử, ma vương, thống lãnh đời sống mình từ vô lượng kiếp luân hồi, đến giờ nó lộ ra.
Thiện là ân nhân, hùng lực, Phật lực, những hạt ngọc quý giá mình có được, sau hàng vô vàn kiếp sống, khó nhọc bòn, đãi,
Phật tánh là sở hữu trí tuệ! Ai cũng có Phật tánh. Nhưng chúng ta có Phật tánh sáng như ngọn nến leo lét – Của Chư Phật thì sáng như Mặt trời mãi mãi.
Nhìn cho rõ, pháp thiện thì đi theo – Pháp bất thiện thì bỏ qua.
Không bao giờ nghĩ, tôi thế này, tôi thế kia, mà phải nhận ra, Pháp này là gì, đang hiện hữu nơi đây?
Trong hoạt động của dòng tâm thức, có 14 trường hợp xen vào. Nếu ta quen, thì cứ vô là thấy biết, nhận ra liền. Thấy rõ pháp bất thiện nào của mình, pháp nào bị xâm nhập vô.
Mối oan trái nối từ: Quỷ khổ tới người (quyến thuộc, bạn bè, xã hội, giao tiếp), địa ngục với người, súc sinh và người, a tu la và người. Ác nghiệp ta đã gieo, người kia chết rồi, vẫn còn nối tiếp, chen vào dòng tâm thức của ta. Chuyện chỉ có 1 nhưng ác nghiệp kia, năng lượng kia xen vào, mình bị tăng lên mấy chục, mới tạo nghiệp mới, mới đọa!
Tu tập không phải chỉ dừng ở chỗ tụng kinh niệm Phật, vì việc đó chỉ để tâm bình an. Sáng suốt là phải phân định pháp nào thiện, pháp nào không thiện. Học rõ các pháp, để nhận biết, chỉ đơn giản như thế. Nhiều lần thấy biết, thì có nang lực của sự thấy biết – là ánh sáng của trí tuệ.
Những người được ca tụng đức hạnh, mới là thô. Vi tế chưa xong. Vi tế xong một phần, mới nhập dòng Thánh.
Vi diệu là ta đã mang thân người. Ngay khi có nhận thức đang ở pháp thiện hay bất thiện, có một cơ chế tự động vi diệu – giúp chúng ta tự điều chỉnh sao cho hợp với tự nhiên nhất! Ta thực sự là món quà của tạo hóa! Ta thực sự là một viên ngọc quý, châu báu, do chính ta đã tạo ra! Tất cả đều là một!
Ta tu tập, ta nhận biết rõ các pháp, chính là ta cởi bỏ sợi dây giữ ta trong lồng, làm thui chột huệ mạng chúng ta.
Những trói buộc, những pháp đen trong tâm ta, tăng lên hay giảm xuống là do mình hết!
Những mũi tên sầu muộn làm cho mình bất an, nhiệm vụ của mình là nhổ mũi tên sầu muộn, chứ không phải là sử dụng những mũi tên đen trong mình bắn mũi tên kia. Càng bắn nhau, càng thoái đọa.
Tu là, tiếp nhận mũi tên độc mà ta không lui sụt thiện pháp trong tâm, ta tăng phần trắng trong tâm.
Mũi tên đen bắn vào vùng thiện pháp, mũi tên đen mất năng lực sát thương. Thiện pháp có tác dụng làm vô hiệu hóa mũi tên độc.
Tập nhìn những bất như ý, chính là hình ảnh của mình. Mình quan sát những phản ứng của đối phương, phẫn nộ,… nét mặt…. Là người quan sát, ta thấy bình thường,đây là cách chuyển mũi tên độc vào vùng trắng của thiện pháp!
Vì lực của 10 kiết sử, mà ta chưa thể làm thánh!
10 kiết sử sai khiến, mà chúng ta có những tính cách khác nhau.
Thiền, sự thấy biết, có tác dụng Cắt đứt chủng tộc phàm phu!
Thành phần thuộc 4 hạng người khổ, 4 cõi khổ là không thể tu tập, tự mình cắt đứt chủng tộc phàm phu. Chỉ có con người và các vị chư thiên cõi dục tu được. Chúng ta học, chúng ta thỉnh chư thiên, các vị ấy sẽ cùng vào học tu với mình. Học xong, ta chia phước cho chư thiên, cho người thân hiện tiền, quá cố. Để đủ năng lực thoát đời phàm phu, chỉ có người và chư thiên mới có năng lực hành trì sang dòng thánh. Họ ở 4 cõi kia, phải siêu thoát, lên người, lên thiên, mới tu được. Những vị ở vô minh, si, bóng tối, thì không thể tu tập được.
Cắt được thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, chúng sinh sẽ nhập vào dòng thánh.
Thân kiến: Sở hữu tà kiến. Hoài nghi: Sở hữu hoài nghi; Giới cấm thủ: Tà kiến. Nằm trong tham, si, vô minh.
Ngã!
Thân kiến: Ngỡ thân là của mình, những gì trong tâm ta là của ta.
Cái tôi thế gian: Quy ước
Đau khổ nào cũng có cách giải quyết! Lời giải dựa vào tứ thánh đế!
Khi thân lâm nguy, tâm không lâm nguy!
Thân ta hoạt động theo hệ thống của nó, trong quán tính của nghiệp. Quan sát hoạt độngt huộc về mặt tứ đại. Thiền Vipassana dạy ta hãy quan sát, phân tách để thấy rõ những thành phần cấu trúc của nó, để ta thấy rõ ràng, chân thực, tuệ giác phát sanh, ta thoát khỏi thân kiến.
Khi quyết định giới định tuệ là con đường duy nhất, thì hoài nghi mới ra đi.
Quyết tâm chọn Phật Pháp Tăng là đối tượng để mình học tập, hành trì, đi theo, hoài nghi mới hết.
Giới cấm thủ: Đức Phật đã sống cuộc đời của người phàm phu bình thường, người này sống không phàm tầm thường, mà đi vào đường thiện, luôn muốn phát triển đi trên con đường thiện lành, nên muốn hành hạnh Bồ tát. Khi trải qua vô lượng kiếp luân hồi, đều là con đường đi của sjw thiện lành.
Tu tập làm cho năng lượng thiện lành của mình mạnh mẽ hơn lên, bằng thiền sắc giới và thiền vô sắc giới. Kiếp cuối, Ngài tu theo Vipassana. Tu không phải với tâm tham.
Lễ Phật, niệm chuỗi để có bình an trong tâm, khi có bình an rồi, sáng suốt khởi sanh, làm ta ứng xử trong đời sống bằng con đường thiện lành.
Niệm Phật, học Phật và hành theo hạnh Phật.
Nếu chỉ là niềm tin không thôi, không hành theo, thì đây là mê tín, giới cấm thủ.
Vui với thành tựu hiện tại, đứng yên ở đó, gọi là giới cấm thủ.
Trạng thái bám chặt vào một sự vật, sự việc,…, không làm tăng trưởng thiện pháp, không có hướng giải thoát khỏi nỗi khổ niềm đau, thì cũng không phải là thiện pháp.
Lễ bái, cầu cúng là phương tiện, không thể đi riêng, luôn cần đi kèm với chia sẻ chánh pháp, mới là lễ bái, cầu cúng trọn vẹn cả chân và tục, cả truyền thống và phát triển, dung hòa các truyền thống.
Thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ: Ta thoát được thì cắt đứt chủng tộc phàm phu. Nếu không, còn ở trong kiếp người, còn ở trong chư thiên, nếu không tu tiến, thì đọa là chắc chắn.
Thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham, sân: Đắc thánh đạo quả tầng thứ 3.
Khi tham dục, sân hận ở lì trong tâm, lâu đời, trở thành lực thống trị trong tâm, cột chặt trong luân hồi, trở thành kiết sử. Khi đã cắt đứt chủng tộc phàm phu, nhập vào dòng thánh thứ nhất, thfi tham kiết sử, sân kiết sử yếu, vẫn còn có nhưng yếu. Vị đó không bao giờ tái sanh vào 4 cảnh khổ. Không bao giờ thoái đọa xuống 4 cảnh khổ. Đây là tâm của vị Thánh mới nhập vào dòng. Trong tâm của vị ở tầng 2, tham sân vẫn còn. Khi vị ấy lên dòng thánh thứ 2, tham sân yếu hơn nữa, tới dòng thánh thứ 3, tham sân kết thúc.
Các vị chưa tu, lửa tham sân như đám lửa đốt cao cả rừng cây. Tu tập, thì lửa hạ dần. Đến mức độ bên ngoài là tro tàn, trong là tàn lửa nhỏ. Đến khi nhập dòng thánh, nó nhỏ nữa, yếu dần, rồi tắt luôn. Ta cố gắng giữ để lửa không bùng. Ta không hiền, mà là chưa dữ. Dễ thương vì chưa nổi ma. Ta không tốt, mà là ta chưa xấu. Hiểu như thế, để mình biết, chuyện gì xảy ra, những gì bên ngoài câu thông với bên trong, khởi phát quỷ dữ bùng lên, mình thua luôn!
Chưa là A la hán, mình còn đầy bợn nhơ, mình còn trong cõi dục, xung quanh đầy màu sắc quả của oan trái khởi sanh, thì phải hiểu rằng, cơ hội trở thành xấu xa là quá lớn, cơ hội thiện lành chỉ là ngọn đèn dầu leo lét trong bão tố. Phải quyết tâm, không hợp tác với ma vương, thì may ra mới thoát khỏi thân kiến. Nếu không, cứ nô lệ cho ma quỷ, thì mình còn luân hồi trong cảnh khổ.
Biểu hiện của tham luyến:
+ Chung thủy
+ Ước muốn yêu thương, gặp gỡ, ở cùng, cột chặt nhau, bóp nghẹt nhau, giữ chặt nhau, không có cơ hội tách ra. Tìm nhau trong luân hồi, để nối kết sợi dây tham luyến, khổ đau, oan trái.
+ Tử tế mà không cột trói, tử tế mà không làm khổ nhau.
+ Ta có thể đối tốt với người, khi không được mà đau lòng, sân hận, chính là tham luyến.
+ Ta sống tốt, không đòi hỏi, thì gọi là tình yêu đích thực, sự tử tế đích thực.
Ta ra đi 1 mình, vào đời 1 mình. Đến và đi khỏi thế gian chỉ có 1 việc: Mang theo nghiệp của mình.
Mình ích kỷ quá, mình nguyện hành hạnh bố thí, mật hạnh.
Hành hạnh điều chỉnh bệnh tâm. Hành hạnh Bồ tát chữa lành tổn thương tâm. Ô nhiễm do hạnh Bồ tát làm vơi dần, thì đường tu sẽ dễ dàng hơn. Trọn thành quả Phật, thì đó là đỉnh cao của Bồ tát, không cần bàn thêm.
Phát nguyện tu tập, tu hạnh nào, thì nên bí mật, càng không kể lể thì càng tốt hơn, gọi là mật hạnh, vì nói ra sẽ bị ma vương phá, ngăn che rất mạnh, điều này làm chướng ngại đường tu.
Cố gắng làm những điều để điều chỉnh tật bệnh trong tâm. Làm lợi lạc cho quần sinh. Đến khi chữa lành hết những vết thương của tâm, phước báo tỏa rộng ra cũng đủ lớn lao. Khi những ô nhiễm của ta làm cho bợn nhơ vơi dần, thì đường tu hanh thông hơn. Cuối cùng, thành Phật!
Từ bi phá tánh nóng. Bố thí phá ích kỷ. Không nên công bố mật hạnh, vì ma vương phá.
Khi đạt được quả vị Phật, A la hán, người hành giả hoàn toàn thư thái, những pháp bất thiện, pháp thiện dục giới cũng để xuống rồi, chỉ có sự trong suốt của đời sống, của bậc thánh. Vị này loại trừ 5 kiết sử còn lại: hữu ái (sắc ái, vô sắc ái), từ bỏ ô nhiễm trong tâm để đi vào đường thiện lành, muốn làm cho sự thiện lành mạnh mẽ, chói sáng, thì vào pháp tu thiền định sắc giới, vô sắc giưới. Nhập vào 12,34 thiền, thấy trạng thái tâm rất bình yên, mát mẻ, trong sáng, nhiều khi ngộ nhận niềm vui mà tâm được trạng thái đo, nghĩa là thành tựu, không còn mong gì hơn, chỉ muốn ở trạng thái này. Bám víu vào những tầng thiền này, người đó không muốn rời đẻ tiến lên, đây là dính mắc vào thành tựu của thiền, dừng ở đó để thọ hưởng, nên vẫn còn tái sanh trở lại vào cõi thiền sắc giới, vô sắc giới. Vẫn luân hồi trong tam giới. Đến khi nào nhận ra rằng, những trạng thái trên chưa phải đích cuối, thì họ tiếp tục tu tập, chấm dứt hữu ái, vô sắc ái, mới tiến vào con đường A la hán. Ngã mạn, phóng dật, vô minh, vị ấy còn phải tịnh tâm, vì bợn vẫn dính tâm. Cần có đợt tẩy rửa thêm, để tất cả bợn nhơ, hôi dơ này được xóa sạch. Phóng dật nằm trong Si.
Vô minh, si, như bèo trên mặt ao. Tu tập chánh niệm làm bèo tan ra. Thất niệm làm bèo tụ lại.
Hành thiền, ta thấy rõ ta phóng dật ra sao.
Phóng dật càng nhiều, ô nhiễm càng lớn, mở cánh cửa tiếp nhận quả bất thiện trổ sanh.
Tu la để khép cánh cửa phóng dật. Khép được thì quả bất thiện khó phát sanh. Còn mở thì còn đón bất hạnh. Chánh niệm để khép được kỹ, lâu, cẩn thận. Được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Cách thức chú tâm, thận trọng, để tâm vào đề mục thiền, giữ chánh niệm, về lý thuyết thật đơn giản, nhưng hành trì không hề đơn giản. Có đủ hiểu biết, sáng suốt để tu tập lâu dài không? Nên, trong người cõi dục, tâm đời cần lợi nhuận cao, thời gian ngắn, đó là tham + sân chỉ đạo.
Giữ giới mới tập tu thiền được.
Giới trong sạch, mới tu thiền lên được. Giới chưa trong sạch thì chỉ tập thiền mà thôi. Nếu không có giới trong sạch, thì ta đi đâu cũng sẽ bị pháp ô nhiễm dẫn đi. Như vậy, rất dễ sai đường. Sẽ bị tác hại về tâm linh.
Trường hợp một nha sĩ, phải chữa nhiều ca một lúc, trong một thời gian dài, nha sĩ sẽ phải đối diện với bệnh: Trầm cảm, vì tâm thức phải chia sẻ cho nhiều ca bệnh trong một lúc, làm yếu thần kinh; làm trong thời gian dài, sẽ mệt mỏi, và giải đãi phát sanh, phóng dật phát sanh, không muốn làm việc nữa – sân phát sanh.
Tu là để trí tuệ phát sanh, nếu trí tuệ không phát sanh được nghĩa là mình chìm trong vô minh và si. Do vậy, giới thứ 5 đã phạm, tâm bị mê mờ, mụi lược, thì các giới khác đều bị đe dọa, phạm, mất.
Làm sao thoát khỏi vô minh?
Trí thế gian, sở hữu tưởng – đào luyện, học hỏi, gắng công,s iêng năng, làm việc, được đầy đủ tài sản cuộc đời.
Trí sở hữu trí tuệ - trí tâm linh – học hỏi giáo pháp, văn, tư, tu. Chỉ đến tu, thiền Vipassana mới tới đỉnh cao trí tuệ. Thoát khỏi vô minh bằng văn, tư, tu. Mình tu là để đời mình an lạc, hạnh phúc, miễn nhiễm ô nhiễm, phiền não, chứ không phải là để tranh luận với đời, không phải là thi thố với đời, hơn thua với đời.
Đủ nhân duyên chỉ cho ai, thì chỉ là cách học thêm một lần cho chắc chắn, không phải là để tăng ngã mạn.
Pháp thiện cao hơn bất thiện, ta mới được làm người. Lực thiện mỗi người là khác nhau. Pháp bất thiện lại có năng lực mạnh mẽ, có thể xô đẩy mỗi con người tới nhiều nơi khác nhau trong các cõi khổ. Những người phần thô ác ít phát sanh thì thường được gọi là người tốt.
Khi mắt tai mũi lưỡi thân ý gặp cảnh duyên, con đường câu thông hiển lộ tiền kiếp, hậu kiếp, báo hiệu con đường tái sanh
Mình muốn gì không được mà sân thế?
Ô nhiễm phát sanh nơi tâm: Nóng nảy, phiền não làm sắc pháp úa tàn.
Mát mẻ, miễn nhiễm phiền não. Bay lên!
Con đường hạnh phúc, không rải đầy hoa thơm. Con đường hạnh phúc, là con đường thấy sai đủ sức sửa đổi, thấy hỏng đủ sức bỏ, loại trừ dần những ô nhiễm trong tâm, loại trừ dần ảnh hưởng của ma vương trong tâm!~ Hạc Tuệ
Không có giới thì khổ. Có giới thì an vui.
Nếu bạn thấy mình buồn, khổ, cô đơn, không có giá trị, cáu giận, bực mình, bức xúc, muốn mắng, chửi, kể lể, chia sẻ, loan tin về sự xấu xa của một người, một hoàn cảnh, mệt mỏi, đau nhức, m… tâm trạng tiêu cực. Muốn gào thét, chửi bới, đánh đập, trả thù, hận thù, giết chết,… Thì nghĩa là bạn đang đau khổ, bạn đang đi sai đường!
Không quan trọng hoàn cảnh nào, ai, đã tác động để dẫn bạn tới hoàn cảnh này, nên nhớ 100% - chính bạn, không phải ai khác – là nguyên nhân cho nỗi đau khổ của bạn!
Theo Phật học, bạn đã bị bệnh trong tâm: Tham, Sân, Si, Sợ, Cái tôi lớn!
Bạn muốn được nhẹ nhàng, hạnh phúc? Bạn muốn được yêu thương? Bạn chỉ có một con đường, duy nhất! Bát chánh đạo!
Luyến ái, hỷ ái sinh sầu ưu.
Dốt, không phải là Si.
Không học thì không biết, thì dốt (thuộc sở hữu tưởng).
Những gì thiện ác không biết, gọi là vô minh, Không biết phân biệt thiện ác, tốt và không tốt, hướng thượng và hạ, không biết thực sự hạnh phúc và đau khổ là gì, không biết nguồn gốc của hạnh phúc và đau khổ, không biết tứ đế, không biết thế gian và xuất thế gian, không biết mà bám víu vào những thành công thuộc về thế gian, nghĩ rằng đó là tốt đẹp, là hạnh phúc đích thực; mà không biết, làm cho tâm trong sáng, thiện lành, mới là hạnh phúc thực sự.
Tử tế để người khác làm cho mình tốt hơn, tử tế có mục đích, vậy không phải là tử tế chân thật.
Mạn phiền não, kiêu mạn. Kiêu hãnh, tự cao, tự đại, chảnh, làm tàng, tự ti mặc cảm, do chúng sinh so sánh giữa cái tôi và của người khác. Khẳng định mình có tự ngã và kia có tha ngã. Sự so sánh luôn xuất hiện, nên dẫn đến cao thấp, thấy thua kém thì đau khổ do tự ti; rất nhiều hình thái mà mình không hề nhìn ra. Biểu hiện: Khinh nhau, coi thường, ít có cặp vợ chồng có sự tương kính thật sự. Giữa 2 bên, có tích lũy hận thù, do sự ứng xử có sự khinh mạn mà ra.
Không thể có hạnh phúc, khi có mối quan hệ chủ tớ, thống trị, thiếu tôn trọng, thiếu yêu thương mà oán hận. Không hợp tác, bổ sung. Cái ngã làm hôn nhân chênh vênh, tạo lỗ hổng về nhân cách để bổ sung cho nhau. Khi xảy ra quan hệ ngoài luồng, thái độ phũ phàng độc ác vô ơn, phản bội, đó là vì bản ngã bị chà đạp, nỗi đau ở trong tâm. Ngã mạn nhuộm đen đời sống của chúng ta.
Ngã mạn tận tầng thánh thứ 4 mới ra khỏi. Sự so sánh là quán tính trong phàm tục. Thay thành chuyển hướng suy nghĩ: Quả phước của bạn thật cao! Tôi chưa có phước lành, tôi sẽ gieo phước để mong có phước tốt đẹp hơn!
So sánh các ngã là ô nhiễm, vui với thành công, ngưỡng mộ thành công, phước lành của người, là hạnh phúc của mình! Ngưỡng mộ để thành công. Ngưỡng mộ, học theo cách làm phước của các bạn, mãi mãi học làm phước! Nghĩ rằng, ai cũng là chính mình, chỉ là ở biểu hiện khác. Người thành công chính là mình thành công. Ngoại cảnh là hình ảnh nội tâm! Các bạn tôi tuyệt vời quá, tôi thật phước lành vì được là bạn của quý vị ấy! Tôi xin học theo vị ấy, thực hiện hạnh lành. Bất hạnh vì phước thiện kém, mê mờ vì phước trí kém. Trí kém thì chăm học, sẽ vỡ vạc dần, sẽ mở mang dần, sẽ sáng suốt dần. Phước nghe, phước đọc sẽ tăng phước trí. Dần dần sẽ được sáng suốt. Mình sẽ được đi bình tĩnh trên đường thiện lành, không bị bật ra. Bật ra là trôi dạt trong đời sống khốn khổ.
Kiến phiền não. Suy nghxi nông cạn, nhỏ hẹp. Sai thì sửa ok, nhưng tà kiến là cố thủ trên những cái mà ta ngỡ là ta ở đỉnh điểm chân lý.
Phước lành vẫn là nghe, học hỏi giáo pháp,
Miên phiền não, sở hữu hoài nghi, tâm si hoài nghi. Có yếu tố của si, vô tàm, vô quý, phóng dật. Bị che khuất ở trong tâm. Khi hoài nghi phiên não phát sinh, làm cho người ta không sáng rõ trong tâm về những vấn đề tâm linh.
Đạo Phật không phải tôn giáo. Có pháp tạo hóa mà không có đấng tạo hóa.
Tu tập chỉ là thấy rõ, biết rõ mình!
Khi mình không thành công, họ chà đạp mình,. Khi mình thành công, thì người đố kỵ và kẻ thù là có thật. Người chia sẻ thật thì không thấy đâu. Người ta chửi mình là chuyện thường. Đời lấy đâu ra tri kỷ? Làm sao bảo người ta tán đồng mình? Khi thành công, là mũi tên độc bắn tới tấp. KHông bị bắn, là chuyện lạ! Khi không có niềm tin Tam Bảo, họ thoải mái bắn mũi tên. Khi có niềm tin Tam Bảo, họ không dám bắn mũi tên độc, vì bắn là khổ, khổ là lỗ!
Hôn trầm phiền não, có trong các pháp bất thiện hữu trợ. Là trạng thái mụi lượt của tâm, buông xuôi, thụ động, tới đâu thì tới, làm mình lười biếng, trì trệ, tiêu cực, buông xuôi,… Trạng thái lơ mơ, lờ mờ, là ô nhiễm. Co rút, bệnh hoạn, đờ đẫn, thất chí, thất tình,… Không đạt ddwwocj điều mình mong ước, không còn thích thú gì.
Ngồi không nghĩ ngợi gì nhưng lờ đờ, mù mịt, nhưng lại có khuynh hướng thích thú trạng thái này, không muốn thoát. Thọ hưởng trạng thái giải đãi. Ngủ không muốn dậy.
Phóng dật. Trạng thái buông thả. Phóng túng. Đi theo sự buông thả. Cung phụng cho sự buông thả. Tích cực trong buông thả. Chưa đến tầng thánh 4 còn phóng dật.
Vô tàm, vô quý. Thấy tội lỗi mà không mắc cỡ, thích thú tội lỗi đó. Tâm chúng sinh như con bọ hung, con ruồi thích đám phân. Chúng sinh mê dục lạc, là đều có vô tàm trong đó. Biết không đúng nhưng thích thọ hưởng, đây là vô tàm, vô quý.
Người có tàm, có quý, người ta không thể làm sai, làm phi pháp, từ từ họ cắt được sự thoái đọa.
Vô quý. Biết là lỗi, vẫn tiếp tục dấn bước, Không sợ hậu quả của tội lỗi. Biết lỗi vẫn tiếp tục lỗi, vì năng lực của ô nhiễm quá mạnh.
Có hai loại người. Đi lên là Biết sai mà dừng, biết lỗi mà sửa. Đi xuống là Biết sai mà đi tiếp, biết lỗi mà bỏ qua.
Si có mặt thì vô tàm, vô quý phát sanh, phóng dật liền có mặt. Vì tham quá mạnh.
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt – Chính là si phát sanh! Thọ hưởng lên đỉnh điểm rồi thì đọa lạc cũng mặc kệ. Đó là tâm muốn thọ dục nhiều, lên đỉnh của sự thỏa mãn. Nhưng họ không bao giờ chạm được tới đỉnh đó. Câu nói này, không phải chân lý soi đường, mà chỉ là tấm gương phản ánh đúng đắn nhất tâm tham bị nung đốt của chúng sinh. Đó là tâm đọa lạc, đó là tâm trầm luân.
Triền cái phát sanh ngăn chặn sự thiện lành trong ta.
Tu là để quan sát tâm thức một cách khách quan. Chỉ có cách này, triền cái mới có cơ lui sụt.
Thất tùy miên, khi đụng cảnh, mình có phản ứng thuộc sân, tham, si mình không lường được. Đây là pháp ngủ ngầm nơi tâm.
10 kiết sử, 6 triền cái chúng sinh có đầy đủ. Chỉ khác nhau ở chỗ mạnh yếu. Nếu không có kiết sử sai khiến, thì ta đã là thánh nhân.
Cho nên, đã là phàm phu thì đừng hoài công mà chỉ trích nhau. Vì khi chỉ trích, ta đã khởi lên ô nhiễm, đã bật công tắc cho phiền não phát sanh, đã cho ma vương sổng chuồng!
Phản ứng trước quả khác nhau, do căn lành đã rèn luyện nhiều đời nhiều kiếp, người đó phản ứng rất thiện lành.
Căn tánh là những tập khí thiện lành mà ta đã tích lũy nhiều đời nhiều kiếp trên đường luân hồi. Cũng như căn tánh bất thiện, tập khí được tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp. Mạnh yếu khác nhau mỗi người, tùy hoàn cảnh, tùy mức độ oan trái hay thiện lành giữa nhóm chúng sinh đó.
Khi 2 chúng sinh gặp nhau:
+ Khi gặp nhau, từ trường phát khởi, cực nhanh, chưa kịp có lời nói hành động nào
+ Các chúng sinh ở các cõi khác nhau:
Khi mình gây sát sanh, đau khổ, hãm hại cho chúng sinh khác, nhiều kiếp sống sau, có thể chúng sinh ở cõi vô hình có thể ám một người, có thể đè ám trong tâm, muốn sống cũng khó, ngồi khó, nằm khó, luôn mê muội trong trạng thái hôn trầm, làm cho mê hoặc.
Nhân duyên còn là ở thể, khi A gây ác nghiệp với cường độ mạnh ra sao, thì họ sẽ gặp lại tâm đó, ở nơi chốn, hoàn cảnh, thười gian, địa điểm do pháp quyết định. Sẽ sống, gặp, tiếp cận chúng sinh có tâm ác hơn trước đây, để mình nhận quả nặng hơn trước rất nhiều.
Ta phát ra năng lượng gì với vũ trụ, ta nhận lại đúng năng lượng đó, chỉ khác là cường độ mạnh hơn gấp bội lần, tần suất cao hơn nhiều lần.
Nên, con đường duy nhất là gột rửa ô nhiễm, giảm bớt ô nhiễm. Chứ đi đến kiếp sống nào, chừng nào không gột, thì đời còn mãi đau khổ.
Trong tâm pháp ô nhiễm càng mạnh thì tội lỗi càng dễ phát sanh. Chỉ có sự sáng suốt trong tâm ta, cứu ta khỏi tội lỗi, khỏi cuộc đời khổ đau.
10 phiền não đều là đen tối, nhuốm tâm, khi mờ ảo, đen tối, những tội lỗi, sai lầm chắc chắn phát sanh.
Sân, tật, lận, hối.
Sao tôi khổ thế này? Do tâm tôi đầy kiết sử, đầy phiền não. Do thân khẩu ý tôi chưa thanh tịnh.
Làm sao để thoát khổ? Làm sạch tâm thôi! Giữ thân khẩu ý thanh tịnh thôi!
Cả thế gian, mõi tôi khổ thôi! Không, trừ bậc Thánh tối cao, còn lại ai cũng khổ, mỗi người khổ một kiểu. Chỉ khác nhau, là họ có nói ra hay không thôi!
Nguyên nhân đau khổ: Tham
Cảnh nối kết với tâm ta, báo hiệu con đường tiền kiếp, hậu kiếp, cảnh giới tái sanh mở dần ra rõ ràng!
Phiền não là sự nóng nảy đốt cháy tâm!
Phiền não làm sắc pháp úa tàn!
Không thấy ra vì tà kiến, ngã mạn, si, tạo nên những phần tối trong tâm, mê mờ.
Vui quá thì phấn khích, hạnh phúc của Vui phấn khích, càng cao càng có tâm tham, tâm si phối hợp, không phải là niềm vui của pháp thiện lành, nó mát mẻ, nhẹ nhàng, tiến hóa.
Chúng ta sonongs theo cảm tính, tập khí, tiếp nhận vấn đề theo tâm tánh của mình. Thiếu sự kiểm soát, thiếu phân tích. Tu không chỉ có đức tin, đức tin chỉ là bậc thềm của chánh điện. Đức tin + Hiểu biết trí tuệ do học hỏi, do có sự đối chiếu suy ngẫm, giữa mình với pháp, tự mình khảo sát trong hoạt động sắc pháp, tâm pháp, thì mình sáng rõ ra.
Dừng lại ở niềm tin là mê tín, cuồng tín.
Chúng ta tập thấy chính bản thân mình, với đủ góc sáng tối, một cách khách quan.
Để ý trong tâm mình thường xuyên có sự giằng co, có sự phân định. Nhưng khi đụng chuyện, những cảm xúc mạnh chiếm hữu trở lại, lời dạy của Thầy trả về thầy. Vậy là pháp ô nhiễm đã lớn hơn pháp thiện trong tâm mình.
Khi đụng việc, ta để pháp thiện sanh lên, vậy là ta đã tiến hóa!
Khi đụng việc, bất thiện, hối, làm điều lành, … cứ thế, làm ta kiệt quệ.
Ta phải vượt lên sự kiện, phân tích, tổng hợp,…
Ngã mạn của ta phát sanh, che mờ hết tất cả.
Tham phiền não, đắm chìm trong ưa thích, dính mắc, điều mình mong muốn khó giữ lâu, thì phiền não phát sanh. Bất cứ điều gì ưa thích đều có nung nóng trong tâm, gọi là lửa dục, lửa tham. Có rồi lại không thích nữa, đây là tham phiền não. Tham không được thì Sân, Tham xong, không thích nữa thì Sân, đây là cơ chế di chuyển, qua lại, Tham, Sân, Tham, Sân, Thích, Ghét,…
Dục có ác, thành ác dục,…
Thế gian khủng khiếp đến nhường nào nếu không có hàng rào giới để giam cầm nó. Từ nóng, giận, đến ác.
Ngày nào chưa nhập vào dòng thánh, tâm mình đầy đủ các loại bợn nhơ, xấu ác. Chúng ta giam cầm chúng bằng giới, bỏ đói chúng bằng cách làm thiện lành. Nếu không, ô nhiễm tâm của ta là thực phẩm nuôi dưỡng bợn nhơ, tham ác, sân ác, si ác. Khi đó, không một điều ác nào mà không dám làm!
Nếu không giữ cẩn thận tâm mình, chỉ một giây lát lơ là, khi đụng việc, mình trở thành ma quỷ, mình không thể kiểm soát được.
Nếu như trong gia đình, là hạt nhân nhỏ nhất của xã hội, không có hạnh phúc, nghĩa là, giới đã phạm ở ít nhất một trong các thành viên.
Một người không hạnh phúc, nghĩa là họ bị nhiễm tham sân si.
Tham là viên thuốc độc bọc vỏ ngọt, sân là pháp nóng nổ tung, si u ám, thụ động.
Chỗ nào có tham khởi lên, chắc chắn đau khổ chực chờ. Chỗ nào có si, chắc chắn mê mờ u tối đè nát thân tâm. Chỗ nào có sân, tất cả đều bốc cháy!
Si là chẳng biết phân biệt thiện và ác, đặc biệt là thiện ác vi tế.
Hành nghiệp ác phát sanh – làm sao hiền ngoan có mặt nổi?
Lược về sự khởi sanh ô nhiễm, các pháp bất thiện:
Một khi đã dấn vào đường tu, thì quả nghiệp trổ lia chia, bất kể. Ở đâu nghiệp cũng có thể đổ.
Khi dấn thân vào đường tu, nghiệp đổ, mình biết xoay trở. Người không tu, thì không có niềm tin, không có khả năng vượt qua. Niềm tin vào đạo đầy đủ, chỉ bằng cách vừa học, vừa hành. Đường tu có thể lên đỉnh cao, và xuống vực sâu thẳm. Nhưng, nếu đã có hạt giống, chủng tử Phật pháp trong tâm, chắc chắn ta đều có thể hướng thiện, hướng thượng trở lại.
Kiếp hoại của quả đất: Nước, lửa, khí.
Chúng ta sống chết, bệnh khỏe, cũng là hoạt động của tứ đại mà thôi.
Tham dục làm mê mờ trí tuệ của tâm.
Tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm thiện, tâm thiền thiện,…
Pháp gì đang khởi sanh trong tâm, nó dẫn tôi đi đến đâu, về đâu?
Cái ở trong tâm không phải là bạn của mình khi ta chưa phân biệt được cái nào là mình, cái nào không phải là mình. Thiện mình theo, không thiện giục mình ra sao. Mình tách ra khỏi, không hợp tác,… Nếu không, ta lầm tưởng, pháp bất thiện đồng hóa với mình, mình coi là mình, mình thấy người là người, tự ngã, tha ngã, rồi đủ các loại tham sân si bùng nổ. Tự khách quan quan sát. Ta có trí tuệ phát sanh. Nếu thiện phát sanh tứ đại mát mẻ. Nếu bất thiện thấy nóng, cứng, co rút. Càng bất thiện càng xấu xí. Càng thiện càng xinh đẹp. Hành thiền để thoát khỏi ngã chấp,… Thoát dần dần, về nhà dần dần.
Quan sát phân tích tổng hợp, đúc kết.
Hoạt độngt hân thấy tứ đại, tâm thấy sắc pháp.
Bất thiện tập yếu 22, chỉ rõ nguồn cơn của vô minh. Đó là do quả địa cầu này!!! Hoàn cảnh…
Ai có đầy đủ sinh già bệnh chết, gọi là phước báu!
Khi chúng sinh có sắc pháp thuộc pháp hữu vi thì sẽ bị diệt bởi tứ đại. Đối cực của đất nước lửa gió là chết. Khi bệnh là tứ đại hoạt động không điều hòa. Cái chết đưa đến cực điểm. Tất cả các pháp hữu vi, trong đó có quả đất, con người, vật chất, vật dụng, cũng đều đi đến sự chết bằng quy luật sinh trụ hoại diệt này. Trong hoạt động tứ đại của nó, cấu thành cái mới. Xuất hiện những thứ thuộc về tâm linh, gọi là ô nhiễm.
Hoại rồi lại đến sự sinh thành. Thời gian cực lâu.
Kiếp thành: theo khí, nước, nhiệt đột, trạng thái,… liền đó có chúng sanh xuất hiện là Phạm thiên.
Sắc thân: thô; Tâm: mịn, tế, không thể cân đo đong đếm, nhưng biết được. Trạng thái của tâm xuất hiện thì thể hiện ra, thấy đươc.
Tư tưởng, tâm, vận hành giống như thể khí, với tốc độ cực nhanh.
Tâm khí thanh, làm mình nhẹ nhàng, trong sạch, thanh cao; trọc làm ta nặng nề, đi xuống.
Ai cũng có khả năng hành thiền, ta thấy được. Khi nào ta sử dụng khả năng thấy biết thường xuyên, để nhận rõ những hoạt động thân tâm, nghĩa là ta đang đi vào thiền. Khí này không tồn tại trong 1 kiếp sống, khí kết thành chuỗi trong các kiếp sống. Ta không biết về thân tướng như thế nào, nhưng con đường đi của khí tâm này, vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục. Phần khí ở giai đoạn chuyển kiếp, là một bản tổng kết của vô lượng kiếp. Khí trọc hay thanh đã quyết định tầng cấp của chúng sinh. Khí này đưa chúng sanh tới nơi mà chúng sanh đó thuộc về, tùy theo tầng cấp tương ưng.
Khi tiêu cực, buồn, hờn, giận, tăm tối – khí trược, trọc. Che khuất tâm trí.
Khi học Phật rồi, ta biết sự hiểm nghèo của pháp ô nhiễm khởi lên trong tâm. Không học, ta coi đó là phản ứng tự nhiên. Nhưng, thực chất, những bản năng đó, chính là tập khí xấu. Ngoài đời, cho là, ai cũng vậy, bình thường. Nhưng trong pháp chân lý, đó không bình thường, việc xử lý tự nhiên cây cỏ, là kéo chúng sinh xuống pháp thoái đọa.
Chúng sanh Phạm thiên là cõi trời sắc giới. Chúng sanh Phạm thiên này đã đắc thiền sắc giới. Những vị trời tái sanh cõi dục, pháp thiện nhiều, pháp ô nhiễm ít. Những vị ở cõi sắc giới, ô nhiễm vẫn còn chút xíu nhỏ nhoi.
Thời kỳ quả đất thành hình một cách rõ nét, các vị Phạm thiên xuống quả đất trong quá trình hình thành. Chư Thiên đắc thiền, vật thực của các vị ở cõi sắc giới là Pháp hỷ. Hỷ thiền. Việc ăn uống như người đời là rất ít.
Tu tập để hồi hướng phước cho các quý vị đạo đức ở khắp các tầng bậc.
Giới tà dâm hướng chi tiết vi tế: Tà hạnh trong dục lạc.
Thọ hưởng dục lạc trong ăn uống là đầu mối dẫn đến thoái đọa, phát sanh ô nhiễm trong tâm. Mình khảo sát cái ăn uống của mình, dễ thấy nhất, dễ dẫn mình vào con đường thoái đọa. Nhìn người đó ăn uống, sẽ biết tư cách của người đó. Cần tiết chế ăn uống. Dục tham phát sanh từ đây.
Ăn, thọ hưởng, thọ hưởng lâu dài, thích thú trong sự thọ hưởng này. Hướng dần đến dục lạc, tham phát sanh, ái ưa thích,… Đi từ các căn: Mắt>> Lưỡi>> Thức quả ô nhiễm; do kinh nghiệm từ vô lượng kiếp để lại, giờ khởi sanh lên. Khi vị CHư Thiên còn phước báo thì vật thực đầy đủ hiển lộ, ăn một thời gian, cơ thể thay đổi, pháp ngăn che, cơ thể to béo nặng nề, tinh khiết trong thân bị đẩy đi, các Chư Thiên mất hào quang. Phát sanh bóng tối. Phát sanh sự sợ hãi. Cầu mong có thêm ánh sáng. Khi cầu mong, mặt trời xuất hiện, có ánh sáng, chúng sinh này mừng vui, pháp hỷ có mặt, hỷ tham xuất hiện, thỏa mãn sự mong muốn. Khi mặt trời lặn thì bóng tối phát sinh, chúng sinh lo sợ. Sân phát sinh. Khi trạng thái ô nhiễm phát sinh, những đối tượng thọ hưởng mất đi, thì phát sinh ra đối tượng khác để thọ hưởng. Kinh nghiệm về sự sinh tồn của những chúng sinh này… Khi phước báo còn, thì vật thực có sẵn. Nhưng có sẵn thì sinh lười biếng, yếu đuối thân tâm. Ăn nhiều mới đủ sống là vô phước. Ăn ít mà vẫn sống mới là có phước.
Khi ăn no, là cơ thể cảm giác thỏa mãn no đủ- nhưng lúc ấy, muốn ngủ nghỉ, vậy là dấu hiệu tổn hại phước báo.
Nên, các vị hành thiền định là đầu tiên phải ly dục để giảm bớt ăn uống trở lại. Các Ngài ko sống bằng đạm chất lấy từ vật thực thế gian, mà lấy từ khí trời. Phước báo nằm ở chỗ ta thọ vật thực ở mức độ vừa phải, ít một chút, mà thân thể khỏe mạnh, đó là phước.
Quan sát trong đời thường, nơi khí trong sạch, chúng sinh nhu cầu ăn ít hơn. Làm việc hưng phấn hơn.
Nơi nóng, ô nhiễm, thì nhu cầu ăn uống, nghỉ ngơi nhiều hơn.
Giàu tham việc, thất nghiệp tham ăn.
Cơ thể do ăn nhiều, nổi mụn, rồi dần dà nở ra các khiếu, các căn…
Dẫn đến sự cuốn hút nhau.>> Hành dâm.
Do sinh tồn, lười biếng, muốn tích trữ>> Tham luyến trong của cải. Tích trữ lúa nhiều quá, không bảo quản tốt, nó bị hư. Rồi dần dần, lúa không tự mọc. Muốn có, phải gieo lấy. Tích trữ, có người không đồng ý, xuất hiện sự chỉ trích.
Người ly dục, hành dâm chấm dứt.
Chư Thiên vô sắc giới không hành dâm, không nam nữ.
Những người hành dâm bị chê, khiển trách, nhục mạ. Những người chê trách,… ở trạng thái sân. Họ thấy đúng sai, họ khó chịu về hành động người khác, họ sân. Những chúng sanh hành dâm thì ở trạng thái tham dục.
Vậy là người thì tham dục, người khó chịu họ, lại bị mắc sân!
Người tham dục thấy xấu hổ, không thoải mái khi hành dâm, họ cất nhà để che đậy, đời sống chồng vợ phát sinh.
Đạo đức con người: Tàm, Quý.
Đạo đức thoái đọa: Không tàm, không quý, trơ trẽn, si đặc trong tâm.
Thoái đọa nam nữ là thấp kém hơn cầm thú. Tâm thức của họ chìm trong không tàm quý. Những người chỉ trích, họ còn tàm quý, nhưng họ lại vào trong tâm sân.
Khi bắt đầu có nhà cửa, phân chia lúa giống, có tư hữu, có người muốn tham của cải của người khác, muốn mang về nhà mình. Phát sanh ra trộm cắp.
Những chúng sinh khác, chê bai những chúng sinh trộm cắp. Nhưng vì lợi nhuận cao quá, nên không nghe lời nói phải! Họ lấy lợi dưỡng lên đầu, biết sai vẫn làm, tiếp tục trộm cắp nữa.
Những chúng sinh có đạo đức hơn kia, đi từ chỉ trích, chê bai, nhục mạ, đánh đập, giết chết: Sân
Những chúng sinh trộm cắp kia bắt đầu nói 2 lưỡi, nói lời thô lỗ, đánh trống lảng, chửi bới, … : Vậy là trong khẩu nghiệp có đầy đủ tác nhân tham, sân, si. Càng cao hơn, những người hướng thượng còn đủ hùng lực, họ ngồi lại với nhau, tìm ra người có đức độ cao nhất, thân sắc đẹp nhất, tướng hảo nhất, không bị những pháp ô nhiễm làm nhơ bẩn, đưa người đấy lên vị trí khả kính nhất, để dạy dỗ, chỉ đường dẫn lối, giúp cho cả cộng đồng yên bình, an lành. Vị này, gọi là bậc Đạo vương, được tặng nhiều lúa thóc hơn. Uy quyền, lương bổng, đời sống xã hội có tổ chức dần. Hình thành quốc vương. Khi các vị quốc vương lên nắm quyền, lại có vấn đề.
1. Tham ăn, không làm, nên nghèo đói, trộm cắp, đánh chửi, giết chết… Cần phạt. Họ ko sợ, vua bắt họ, chém họ.
2. Mình cũng không muốn làm, nhưng muốn ăn nhiều hơn, ta phải làm vũ khí, để xử lý bọn tố giác ta, trở nên Cướp, Giết. Chúng sanh này tàm, quý, si cực nặng. Con đường đi của họ đi thẳng vào địa ngục.
Vì lười biếng mà muốn thọ hưởng thật nhiều: Người muốn lợi dụng lòng tốt của người khác, dùng những mánh khóe, nhân chính là ô nhiễm, dối trá, lừa đảo: Hậu quả vô cùng nặng nề.
Có những vị quốc vương, lãnh đạo, những vị có đạo đức hơn, nói, bảo những thành phần ô nhiễm kia mãi không được, họ nói: Lửa trong bếp của nhà này phải dập tắt, khói trong mỗi buổi sáng chiều phải dập tắt, những vật dụng trong gia đình phải không sử dụng được nữa. Họ rời nhà, vào rừng. Họ ngồi ngẫm nghĩ, thiền định bắt đầu từ đó. Đi xin ăn, khất thực. Rồi lại vào rừng nghiền ngẫm. Pháp thiền trở lại cho những vị hành giả. Bản chất Phạm thiên gần như là tổ tiên đầu của loài người. Thiền định phát sinh trước.
Những pháp thiện lành đàu tiên của các vị thiền giả này bắt đầu nuôi dưỡng.
Con đường thoái đọa:
Tham dục, Tham ái, Sợ hãi (tâm Sân), Vui (Hỷ tham), Trộm cắp, Chửi bới thô lỗ, Lười biếng, Chém giết, Sát sanh, Nói láo, Nói lời 2 lưỡi, Nói lời phù phiếm,..
10 pháp bất thiện trổ sanh qua 3 cửa thân khẩu ý. Đường đi từ Ý (Tham, sân, Si), Khẩu (Nói láo, Nói 2 lưỡi, Nói lời thô lỗ, Nói lời đánh trống lảng phù phiếm), Thân (Trộm cắp, hành dâm, tà dâm, sát sanh)
Các vị đi vào rừng, ẩn sĩ, nghiền ngẫm, tĩnh tâm, suy nghĩ, các vị quay về để thấy nơi chính mình, tâm thức lắng lại, trong sạch, sáng chói ra.
Khi ở khu rừng, ẩn sĩ, các vị đã tránh được: Sát sanh, dâm dục, trộm cắp, ác khẩu, tham, sân, si thô.
Các vị ấy lắng tâm dần, đến sáng chói: Vô tham, vô sân (Từ); Có trí tuệ (Chánh kiến),
Chúng sinh nhìn người khác, thấy xấu đẹp, thấy người làm tốt xấu, khen chê, tự đánh giá, mình cao thấp,…, rơi vào ngã chấp. Tà kiến phát sanh. Tà kiến nằm trong tham hợp tà. Rất mạnh mẽ.
Khi những chúng sinh này bắt đầu ăn thực phẩm, thích thọ hưởng, ăn nhiều, cao hơn người khác, mạnh hơn người khác, thì thích thú, nhưng không ngờ, mạnh mẽ cao lớn do ăn uống, lại làm cho ánh sáng của vị Phạm thiên tối lần, tắt trước. Những mụn lên nhanh, khiếu nở ra, thành con người căn nam nữ, họ đã phạm vào việc, đầu tiên là quan sát, tò mò, thấy người, thấy mình, chính là cái ngã, thấy sức hút,…, cái ngã hoạt động; khi hành dâm phtas sanh, lại sanh luyến ái, lại muốn sở hữu người của mình, ngã chấp mạnh mẽ, muốn sở hữu tài sản, tiếp tục tăng dần, trở nên cốt lõi trong đời sống của thế gian, đây chính là tà kiến đã có mặt trong đời sống. Tà kiến sẽ chỉ huy người này, vì lợi dưỡng của mình, vì lợi dưỡng của người thân,…, hình thành tư lợi; tư hữu, làm cho người ta chỉ nghĩ đến mình, không nghĩ đến người; đời sống tâm linh sa sút do luyến ái trong ngã chấp, tự ngã cao, ngã là lớn nhất. Càng trong đời sống gia đình, mới càng thấy, những người có phước lớn lắm, mới thấy người yêu mình vô tư, không phải yêu thương vì được nhận những lợi lạc từ mình; phần lớn là hai chiều. Kỷ cương thế gian chỉ là quy ước. bản thể sâu sắc của quy ước: nối kết bằng cộng nghiệp và những pháp ô nhiễm trong tâm của những chúng sinh đó pahts sanh lên mà không nhận ra. Cái tôi, cái của tôi thì mình giữ, mình chăm sóc; Vì vậy mà tạo nghiệp không thiện lành để luân hồi với nhau. Cần tỉnh táo nhìn kỹ đời sống thế gian, để chung sống tốt đẹp hơn, để dẫn dắt nhau đi vào sự sống tốt đẹp đích thực hơn. Không phải thỏa mãn tham ái của nhau để được vừa lòng nhau. Ai đáp ứng nhu cầu nhiều chừng nào, thì mình thân thiết nhiều chừng đó…. Nhiều hoàn cảnh, người ta không biết biện biệt đúng sai, nên không nên cho rõ ràng, chỉ vì cái ngã, cái tôi này, rất vi tế…
Nên, có 2 con đường đi, phân biệt rất vi tế. Một đường theo thành tựu thế gian, một đường theo sự phát triển tâm linh. Có khi đi nghịch nhau. Nhưng, đi nghịch của pháp thiện và bất thiện là đúng, nhưng cái nào nuôi cái nào? Pháp thiện trợ duyên cho pháp bất thiện lui sụt, pháp bất thiện không bao giờ trợ duyên cho pháp thiện cả!
--
Khi chưa nhập dòng thánh, tham sân si quậy tung trong tâm ta, ở nhiều sự kết hợp, gia giảm nồng độ, liều lượng khác nhau. Vì thế, ta bị trói buộc trong luân hồi, khổ đau. Nên, nếu không hiểu biết hoạt động trong tâm thức, gì là thiện, gì là bất thiện, thì phần thiện lành trong dục giới vẫn đưa đến luân hồi, nhưng là dòng luân hồi tiến hóa. Luân hồi này làm cho chúng sinh được sinh ra trong cõi chư Thiên dục giới. Những pháp ô nhiễm đưa chúng sinh vào luân hồi thoái đọa, trong 4 cảnh khổ. Nên, chỉ có con đường thiện và ác. Ta có quyền chọn lựa. Sự chọn lựa này xảy ra trong tâm, khi tâm phát sanh, ta có năng lực phân tích, phán đoán, đưa ra ứng xử - ai cũng có, nhưng năng lực này mạnh hay yếu, dẫn đến pháp thiện là như lý tác ý; hay ác, đây là phi Như lý tác ý. Khả năng này mạnh yếu khác nhau, khi đối cảnh, do phước trí mạnh hay yếu, năng lực thuộc về tác ý thiện phát sanh mạnh hay yếu. Khi học Phật pháp, chúng ta rõ cả, chúng ta bắt đầu tu từ ý, khẩu, thân. Ý là trạng thái tâm phát sanh trong tâm, hiển lộ bằng lời nói, hiển lộ qua hành vi, thân hành nghiệp.
Thân hành gồm toàn thể hoạt động tạo nghiệp cực mạnh. Những gì, ý tưởng trong tâm khởi lên thường xuyên, ta biết nó đang tạo ý nghiệp. Thấy lúc thế này, lúc thế khác, ý không trụ, mà nhảy, phóng. Vậy là, một trụ trong pháp thiện, một trụ trong pháp không thiện. Nhảy thì nhiều đề mục. Ra khỏi đề mục là tâm ở trạng thái bất thiện. Thường an trú trong pháp thiện, ta có tam tư. Có đề mục tu tập thì nó thiện lành. Tính toán một điều gì đó bất chính, thì nó cũng trụ vào những pháp bất thiện. Ý nghiệp đang trổ sanh trong tâm.
Người thế gian: Tại sao tôi phải tu? Tôi có ác đâu mà phải tu? Người đó tư cách đạo đức tốt trong thế gian.
Phật pháp gọi họ là người có căn thiện lành. Nhưng đi sâu, họ có phạm vào pháp phóng dật trong tâm hay không? Khi hiểu ra, tu tập thật là cần thiết. Không hiểu, mình cứ nghĩ mình ok, nhưng thực chất, thô thì không phạm, nhưng tế thì chưa chắc.
Tại sao phải chú ý phần tế? Phần tế ở trong, chỉ trong tích tắc ra ngoài là thô có mặt tức thời. Khi ở trong tập thể, nếu không gìn giữ, thì những phần ô nhiễm nhảy ra rất dễ dàng. Mình dù thương nhau lắm, nhưng vẫn có thể nói lời thô lỗ, chì chiết, suy nghĩ hung hãn trong tâm,…
Không thể nói rằng, mình giữ mãi những nề nếp trong hạnh kiểm của mình. Tu tập rất cần thiết, để những pháp ô nhiễm bị suy yếu liền, để tăng trưởng pháp thiện lành trong tâm. Con đường đi thế nào?
Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý
Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp
Tất cả những đối tượng khi xuất hiện trong tầm mắt của ta, trong vòng tay của ta có thể tiếp nhận được,…, khi có một sự giao lưu, tiếp cận, đồng thời, có sự ứng xử.
Căn gặp cảnh, có sự tiếp nhận, có sự xử lý thông tin từ cảnh, cho ra kết quả là thái độ ứng xử, hành vi tạo tác, tác nghiệp, tạo nghiệp.
Tất cả những cảnh này đi vào ngũ căn, phải có tác ý tiếp nhận đó, thì khi tiếp nhận cảnh, đó chính là quả. Vậy là khi nói đến quả, thì nghĩa là có nhân đã gieo trước rồi.
Cơ chế tự động của tâm: Nếu nhận quả thiện lành, tự động 5 thức quả thiện lành phát sinh; nếu nhận quả bất thiện, tự động 5 thức quả bất thiện có mặt để tiếp nhận.
Nhận quả xong, 5 thức quả xuất hiện, rồi list thái độ, hành vi, tác nghiệp,… xuất hiện sau.
Hệ thần kinh, đủ các thành phần cơ thể chính là quả nghiệp của mình, là thân phận của mình. Bằng con đường tu tập, ta thoát khỏi thân phận của mình. Nếu không, ta bị chính những tập khí của mình đè bẹp mình xuống. Nếu chúng ta có ý chí, quyết tâm, nhận định sáng suốt, chúng ta có thể vượt qua thân phận xấu xí, nặng nề, khổ đau của mình, để tới tương lai tươi sáng. Nếu chúng ta nhận ra: luôn luôn ta có điểm sáng trong tâm, nó ít được sử dụng vì ô nhiễm quá lớn, quá dày, quá cứng. Nỗ lực tu tập, nỗ lực sống thiện, chiến đấu cam go, kiên cường, nhẫn nại, vững chãi trước những tập khí xấu của mình. Nhận ra rằng, mình thất bại rất nhiều lần với thói hư của chính mình, nhưng kiên trì, chắc chắn sẽ tới lúc mình chiến thắng!
Những pháp bất thiện đưa chúng ta đến thoái đọa. Khi tu tập, chúng ta có thể nhìn thấy nó, rèn luyện nó qua hoạt động của thân khẩu ý. Chúng ta thấy con đường đi của nó, là con đường đi từ 6 căn, 6 cảnh giao lưu, tất cả thái độ ứng xử bằng thân khẩu ý đều tạo nghiệp.
Xây hay phá, thiện hay ác, từ trong tâm, trổ quả ngay trong tâm. Như là một máy cắt tự động, ta nghĩ điều gì, tại thời điểm n, tự động ở thời điểm n+x nào đó, chính ta nhận quả tương ứng!
Ví dụ, trong lúc nghe pháp, đầu óc lơ mơ, treo ngược cành cây, thì chắc chắn tại một thời điểm nào đó trong tương lai, quả thiện chúng ta nhận (do nghe pháp), là trí tuệ, ta có trí tuệ rất tốt, nhưng chất lượng không đồng đều, có những lúc tự nhiên trí tuệ tối tăm, ko nghĩ ra được điều gì! Phải rất lâu sau, tự nhiên, tỉnh ra, sáng suốt trở lại! Bất hạnh thay, khi ta phải ứng xử chuyện gì đó, ngay trong lúc ta không sáng suốt, vậy thì, kết quả là khổ đau tiếp nối. Vậy là quả trí tuệ đang phát sinh, tự nhiên đứt đoạn, rơi xuống thoái đọa, rồi phải mất bao lâu sau nữa, mới ngoi lên tầng giới cao hơn?
Rõ ràng, ta phải giữ gìn chánh niệm trong mọi lúc, mọi nơi là vì như thế. Giờ nào, việc ấy, là ở chỗ này!
Đây chính là hiểu biết nền tảng để chúng ta xây dựng đường tu của riêng ta, sao cho đúng đắn, thênh thang, nhẹ nhàng, thuận lợi.
Căn bản là từ nơi thân khẩu ý.
Giải thoát từ nơi thân này, Trói buộc từ nơi thân này, tiến hóa cũng từ thân này, sa đọa cũng từ thân này.
Giữ thân khẩu ý thiện lành để tiến hóa; giữ thân khẩu ý trong bất thiện, để sa đọa. Tất cả là do ta có đồng ý, có quyết định hay không!
Ta muốn cho ma xâm nhập, hay thánh xâm nhập vào ta, là do ta chọn con đường nào?
Pháp môn: Nhận biết tâm, nhìn tâm, thấy tâm, biết tâm. Vậy là quan sát tâm ý! Từ quan sát, tiếp tục tiến tu.
Bài pháp 10 bất thiện nghiệp
Pháp bất thiện làm tâm mê muội, cản trở con đường tiến hóa của mình.
Nếu ta nói pháp đối trị, là 10 thiện pháp. Giúp ta thoát khỏi sự kiềm chế của pháp bất thiện trong tâm.
Tham: Dính mắc vào những gì mình ưa thích. Không muốn nhả ra. Dẫu biết sai, không tốt, đưa đến tai hại, vẫn không nhả.
Sân: Trạng thái tâm nóng nảy, bức xúc, nhiệt não, bất an, hiện ra dưới nhiều dạng, không hài lòng, không thoải mái, bất mãn, bực bội, khó chịu, hiềm hận, hiềm thù, hiềm khích, tức tối,…
Si: Trạng thái mê mờ ở trong tâm. Nó có thể tiến tới trạng thái đen tối. Tự tử: Trong lúc hành xử để kết thúc mạng sống của mình, đây là Si đưa đến đen tối hoàn toàn. Người này ở trạng thái tuyệt vọng. Khi tâm tăm tối, sắc pháp chấm dứt. Chúng sinh bị rơi vào cõi tăm tối nhất, u mê nhất. Những con của Chúa tự tử, không được chôn trong đất Thánh. Đạo Phật, nói rõ, khi tâm thức tuyệt vọng, tối đen nhất, sẽ tái sinh vào cảnh giới tương ứng. Đau khổ của chúng ta, không nằm nơi sắc thân, mà nằm nơi Tâm!
Tự tử: Ta thấy có ý nghĩ trong đầu:Chết đi. Chết để biến mất khỏi nơi đau khổ này, khỏi cảm giác đau khổ này, khỏi những người làm cho mình đau khổ. Ta đã đồng hóa sự đau khổ với tấm thân này. Nhưng thực tế, tâm thấy đau, chứ thân có đau đâu? Tất cả mọi khổ đau xảy ra trong tâm. Mà tâm đâu mất? Tâm khi chưa được điều phục, nó chỉ thay đổi trạng thái buồn vui thương ghét khổ đau… Tâm gặp cảnh là nảy sinh các giá trị lên xuống đó. Muốn ta khỏi khổ, con đường cắt đứt sự sống không phải là đúng đắn. Muốn ta khỏi khổ, phải điều chỉnh tâm! Muốn điều chỉnh tâm phải học cách điều chỉnh tâm. Học cách điều chỉnh tâm: Phật Pháp – Vi diệu pháp! Con đường an vui để tâm khỏi khổ: Đưa tâm về đường Bát chánh! Điều phục Thân khẩu ý thanh tịnh. Tâm khổ là tâm dính mắc sự vật, sự việc. Tâm không dính mắc, tâm buông xả, tâm sẽ được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là tâm an vui! Tâm an vui thì bất kể sự vật, sự việc nào cũng không có làm ảnh hưởng được tâm an vui! Các chúng sinh có thân và tâm hướng thiện, hướng thượng, sẽ muốn tới với chúng sinh có tâm an vui! Cộng đồng chúng sinh có tâm an vui, chính là Tăng Bảo, chính là những người con của các bậc Tỉnh thức, bậc Giác Ngộ! Chúng sinh này tinh tấn điều chỉnh, hướng thượng mỗi phút giây, mục tiêu hướng đến là: Mãi mãi trong tâm tràn đầy thiện lành, từ bi hỷ xả, trọn lành tất cả các pháp thiện, tâm không còn bợn nhơ cấu uế! Ấy là con đường đi của các chúng sinh tiến hóa, tinh hoa!
Si nằm trong tâm, không trong thân. Hủy hoại sự sống là sai lầm căn bản, tà kiến tăm tối, rất khó thoát ra. Nhớ rằng, không bao giờ tất cả cánh cửa cuộc đời đóng lại hết. Các cánh cửa chỉ là khép lại. Chúng ta muốn có thể mở ra được. Dại dột của ta, khi người ta sống ở đời, như đánh bạc, đặt cược cuộc đời của mình vào một việc nào đó, một con người nào đó. Đóng tất cả cánh cửa, chỉ để con đường dựa vào việc kia, người kia để đi. Khi cánh cửa này đóng, mình hết lối, mình đau khổ, mình tự tử!
Tham dục về nam nữ làm cho người ta vào tăm tối nhiều nhất.
Hoạt động tâm pháp biến đổi hoài, chẳng bao giờ tắt! Dòng tâm thức xô đẩy, có bao giờ tắt đâu, xô đẩy với lực nhân quả.
Oan gia hại oan gia, kẻ thù hại kẻ thù, không bằng tâm hướng tà, hại chính bản thân ta.
Hiểu biết nông cạn về đời sống tâm linh, chính là mình hãm hại mình, bắt chẹt mình, để chết cả đời sống tâm linh. Khổ đau bao kiếp, chỉ vì vậy! Nên,phải hiểu những thứ mình có từ vô lượng kiếp đến nay. Cố gắn thắp sáng ngọn đèn trí tuệ của mình. Tánh sáng ai cũng có! Tất cả ác nghiệp che mờ Phật tánh, che mờ ngọn đèn trí tuệ, nên tại sao nói tu phải giữ giới. Không giữ giới là trí tuệ bị che mờ. Che mờ rồi thì làm sao đi đúng được?
Khi giới chánh đã phạm, thì tu thiền Vipassana khó thành công.
Gọi là Chúng sanh, vì đó là sản phẩm của nghiệp.
Việc sát trùng, không phạm giới sát sanh. Con vi trùng không phải là chúng sinh. Sinh ra từ nhiệt.
Trùn, muỗi, dế, kiến, gián, chuột,… là quả của nghiệp.
Chúng sinh có: Sắc thân gồm đầy đủ sắc pháp. Danh pháp: có hoạt động của tâm và các tâm sở.
Trước khi có hành động sát sinh, rất nhiều suy nghĩ phát sinh trong tâm, từ đầu: Nên, không nên; Khi ta đến với thế gian, mình đã tạo nên một cuộc kinh doanh phá sản! Đau khổ sầu muộn cho tới chết! Tổn thương biết bao nhiêu mà kể! Trong khi đó, hôn nhân không phải để phá sản, nếu ta biết cách sống từ bi hỷ xả trong đời sống gia đình, thì ta có thể tăng phước thế gian và phước trí tuệ!
Hạnh phúc nhất là không bao giờ phải ở hoàn cảnh rất khó khăn lựa chọn. Hạnh phúc là luôn được thuận duyên tu tập.
Hạnh phúc là luôn được thuận duyên, chẳng phải ở hoàn cảnh xấu ác, chẳng bao giờ khởi lên ý ác, khẩu ác, hành ác.
Người sản xuất vũ khí là có nghiệp sát, mỗi lần có ai đó sử dụng vũ khí đó để sát sanh, thì người sản xuất vũ khí lại thêm nghiệp sát.
Người làm bùa chú để giết một chúng sinh nào, có nghiệp sát.
Ai đó đắc thiền, luyện quyền phép. Tâm của vị này thiện rất lớn, nhưng ô nhiễm chỉ dẫu một đầu kim, nhưng họ dùng ô nhiễm này làm vũ khí giết người, đây cũng phạm giới sát sanh.
Không tu theo bùa chú. Những cách tu để có thần thông, rồi dùng thần thông để luyện bùa chú, để sát sinh, cũng phạm giới.
Tâm Sân. Chúng sinh nào cũng có. Chúng sinh có tu, cố gắng tập tành để tâm sân đừng sổng chuồng. Không dám bảo đảm là thu phục được tâm sân của mình!
Không hài lòng, bức xúc, khó chịu, bất an, là chuẩn bị ra!
Mình biết, mình phải tìm cách: Né, năn nỉ, hạ xuống, xin đừng tạo ác, xin đừng tạo oan trái, đi uống nước, ăn,…, trong lòng khởi lòng xin lỗi tâm sân, xin lỗi các nhân duyên từ vô thủy kiếp, đẻ giờ đây con thấy quả sân trong tâm! Con xin lỗi, tha cho con! Cứu con cho con được thanh tịnh tâm.
Thiền tuệ: Mình thấy sân nổi lên, chỉ thấy thôi, không dán nhãn, không đặt tên, không phản ứng, không dạy dỗ, không bảo ban, không đè nén,… Chỉ thấy! Thấy thấy thấy! Biết biết biết! Hết sức nhẹ nhàng! Đây là bình an, đây là sáng suốt, giúp mình thoát khỏi sự chi phối của ô nhiễm. Khi ta thắng lợi bằng tâm thiện trí, ta tạo điều kiện cho tâm thiện trí khởi sanh mọi lúc, mọi nơi, thì ta là người thắng bản thân! Người cao quý!
Những Phật tử tu theo pháp môn nào không quan trọng, quan trọng là mỗi khi quý vị công phu, tâm quý vị bình an. Khi giờ lâm chung tới, nếu quý vị đủ nhân duyên công phu ngay lúc đó thì tốt quá, nếu không đủ nhân duyên, quý vị cứ nhẹ nhàng tâm đi là đủ. Vì ta tu tập không có mục đích tái sinh đi đâu. Chúng ta còn phàm phu, chúng ta không tự quyết định đi đâu, việc ta đi đâu là do pháp quyết định. Việc của ta là yên tâm tu. Giữ tâm thành kính Tam Bảo, và giữ tròn Giới hạnh, văn tư tu siêng năng tinh tấn hành trì! Đến lúc lâm chung, tới đâu thì tới. Không lo lắng, không suy nghĩ về nó.
Ta mong muốn được tái sinh ở đâu đó, theo pháp môn nào đó, là tùy theo phát nguyện tu tập của hành giả. Tuy nhiên, nếu kèm thêm tâm lý lo lắng, xem có tới được hay không, thì ta đã nhiễm bất thiện pháp rồi! Cứ yên tâm, bình tâm mà tu. Mọi chuyện có pháp lo! Vậy thôi!
Thân là sắc thân, thân là toàn thể.
Thân hành nghiệp, khẩu hành nghiệp, ý hành nghiệp.
Tích trữ thứ gì, nặng nề vì thứ đó.
Tất cả chúng sinh trong cõi dục, đều thuộc về đời sống hữu vi. Luôn bị chi phối theo luật vô thường, khổ, vô ngã. Bị chi phối bởi lực của sắc tứ tướng, sinh, trụ, dị, diệt. Tất cả chúng sinh đều chịu sự chi phối này. Khi nói đến đại kiếp, tuổi thọ của quả đất, với 4 giai đoạn sinh trụ dị diệt này. Khi nói đến kiếp của quả đất, thì chỉ nói đến phần trụ của quả đất mà thôi. Hoại diệt của quả đất: Kiếp thành, kiếp hoại,… để ý kiếp thành, quả đất gồm đất nước gió lửa; lấy thân con người để quan sát, cũng có 4 yếu tố này. Tập thấy chính xác từng yếu tố đất nước gió lửa trong ta, làm thành quán tính ghi nhận, thành thói quen. Ai cũng có khả năng.
Năng lực tưởng ai cũng có, ai có pháp ngăn che yếu thì họ thông minh, giỏi giang.
Tu thiền được dễ dàng hay không, do các pháp ba la mật chưa mạnh mẽ.
Khi ba la mật chưa đủ, chưa tu thiền được.
Trộm cắp:
Các chi pháp tạo thành giới trộm cắp.
Trộm cắp niềm tin – thoái đọa khủng khiếp cho đời sống tâm linh.
Đeo xá lợi niềm tin bên người – không nên!
Ý khẩu thân tham sân si, hiển lộ ra 10 pháp bất thiện căn bản. Ta thọ ngũ giới là ngăn ngừa 10 pháp bất thiện căn bản, cốt lõi phát sanh trong tâm. Ta giữ được, thì con đường tiến hóa của ta được đi, hướng tới ngày đi trọn vẹn. Đích đến là nơi Bình an mãi mãi!
Chừng nào chưa đi được trên đường này, chúng ta còn đau khổ trong 10 pháp bất thiện.
Tà dâm, là 1 phần của tà hạnh trong dục lạc.
Chúng ta nương gá, nương tựa nhau, để xây dựng và phát triển những pháp thiện lành. Chúng ta tạo dựng đội ngũ đồng tu! Chính vì là đồng tu, nên phải tập tu.
Dẫu hoàn cảnh nào xảy ra, ta cũng phải tập tạo cho ta ở vị trí quan sát, chỉ có cách này, tâm ta mới quân bình, lúc đó ta tri túc, ta thu thúc lục căn, ta không thích không ghét, ta nhớ, ta làm người quan sát.
Nói dối: Muốn người khác hiểu sai sự thật!