Tìm kiếm
Logo Footer

Các bài viết trên trang thầy Quảng Tánh

Tác giảHẠC TUỆ
NGUY HẠI KHI CHỈ TIN MỘT THẦY 
Đức tin vào Tam bảo, nhất là tin Tăng được xem là một yếu tố quan trọng của niềm tịnh tín, làm tăng trưởng phước báo và thăng hoa tinh thần của tự thân. Tăng là một đoàn thể thanh tịnh và hòa hợp, tin Tăng đúng nghĩa là gởi trọn niềm tin vào đoàn thể ấy. Dựa trên niềm tin Tăng bảo, một Phật tử có thể thân cận, gần gũi để được hướng dẫn và tu học với một vị xuất gia. Thế nhưng chỉ tin vào một vị Tăng duy nhất và gần như phớt lờ với Tăng-già (bốn vị Tỷ-kheo trở lên, hòa hợp và thanh tịnh), đó là điều nguy hại.
“Một thời Thế Tôn ở Kimbilà, tại Veluvana, dạy các Tỷ-kheo:
- Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo, trong lòng tịnh tín đối với một người. Thế nào là năm? Này các Tỷ-kheo, người nào được một người tịnh tín, rồi người ấy phạm lỗi và chúng Tăng tùy theo lỗi đã phạm ngưng chức người ấy, bắt người ấy xuống ngồi cuối. Lại nữa, người nào được một người tịnh tín, rồi người ấy đi đến nơi khác hoặc người ấy bị loạn tâm hay người ấy bị mạng chung.
Người này suy nghĩ: ‘Người mà ta ái mộ, ưa thích, nay người ấy bị chúng Tăng ngưng chức, bị bắt xuống ngồi cuối; nay người ấy đã đi xa, bị loạn tâm, bị mạng chung’ và người này không còn tịnh tín với các Tỷ-kheo. Do không còn liên hệ với các Tỷ-kheo khác, người này không nghe diệu pháp, do không nghe diệu pháp nên người này thối đọa khỏi Chánh pháp.
Này các Tỷ-kheo, đây là năm nguy hại đối với việc chỉ tịnh tín đối với một người”.
(Kinh Tăng Chi Bộ, chương 5, phẩm Ác hành, phần Tịnh tín đối với một người)
Cộng đồng xuất gia ngày nay chưa thể gọi là rốt ráo thanh tịnh, bởi một số vị chưa làm tròn bổn phận xuất gia của mình. Sự thật này tuy ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của chư Tăng nói chung nhưng đó là việc cá nhân, không liên hệ đến bản thể Tăng già vốn thanh tịnh và hòa hợp. Cũng chính vì thế mà hiện tồn tại hiện tượng một số người (có thể chưa hiểu sâu sắc về giáo lý hay do sự hướng dẫn thiên kiến của thầy mình) chỉ tin vào một người duy nhất là thầy của tôi, sư phụ của tôi, chân sư của tôi… và đánh mất niềm tin Tăng-già.
Cách tin này dễ rơi vào sự sùng kính thái quá, cuồng tín đến mê muội, khó tránh khỏi chấp thủ cho người tin và làm tăng tự mãn đối với người được kính tin. Theo tuệ giác của Thế Tôn, đó là những nguy hại. Bởi khi chỉ đặt niềm tin vào một người, rồi người ấy chẳng may thăng trầm, suy thịnh theo lẽ vô thường, dẫn đến chao đảo, hụt hẩng, mất nơi nương tựa tinh thần và thối đọa trong Chánh pháp.
Vì thế, người con Phật phải xây dựng niềm tin, sự kính trọng vào Tăng bảo, Tăng đoàn, không tin vào một vị thầy duy nhất. Thầy của mình chỉ là một chiếc lá của cây Tăng, một tế bào của cơ thể Tăng. Cây Tăng luôn to lớn, cành lá sum sê, gốc rễ bền chặt. Chiếc lá có thể vàng úa và rụng rơi nhưng đại thọ kia thì luôn vững chãi. Bỏ quên cây lớn để nắm bắt chiếc lá là một thiệt thòi, lầm tưởng chiếc lá là đại thụ lại càng đáng thương hơn. Và đây cũng là điều mà hàng sơ học cần suy tư để thành tựu niềm tịnh tín Tăng bảo.
--
CÙNG NGHIỆP
THÌ KẾT DUYÊN VỚI NHAU
Trong đời sống thường nhật, những người cùng ý tưởng, chung sở thích thì hay kết duyên tụ lại với nhau. Vì ‘đồng hội, đồng thuyền’ nên có vô số hội nhóm được kết tụ để cùng nhau thừa hưởng cộng nghiệp của chính mình. Khi được sống chung và sẻ chia với những người cùng sở thích, chung chí hướng là niềm vui, mong mỏi của nhiều người.
Tuy cùng nghiệp, cùng sở thích nhưng hội tụ với nhau theo hai hướng chính, đó là thiện và bất thiện. Những người có lòng tin thì đi với nhau, người giữ giới thì đi với những người có giới, người biết tàm quý cũng tìm cách hội tụ cùng nhau. Ngược lại những người không có lòng tin, không có giữ giới, không biết tàm quý cũng tìm cách hội lại với nhau.
“Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
Chúng sanh thường tụ hội theo giới, hòa hợp với giới. Khi bất tín thì đi cùng giới bất tín. Khi phạm giới thì đi cùng giới phạm giới. Khi không tàm không quý thì đi cùng giới không tàm không quý. Khi có lòng tín thì đi cùng giới có tín. Khi trì giới thì đi cùng giới trì giới. Khi tâm có tàm có quý thì đi cùng giới có tàm có quý. Cho nên, Tỳ-kheo, phải khéo phân biệt các giới loại sai biệt.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành”.
(Kinh Tạp A-hàm, kinh số 450)
Chữ giới trong ‘tụ hội theo giới, hòa hợp với giới’ chính là giới loại, hội nhóm. Pháp thoại này Thế Tôn nhấn mạnh đến những hội nhóm có hoặc không về ba phương diện tín, giới và tàm quý. Tín đây chính là lòng tin Tam bảo Phật-Pháp-Tăng. Giới chính là năm giới của người tại gia và giới bổn cùng luật nghi của người xuất gia. Tàm là biết hổ thẹn với những điều xấu đã làm, quý là sợ hãi quả báo ác đã tạo (có nơi định nghĩa tàm là hổ với mình, quý là thẹn với người).
Theo quy luật ‘đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu’ (cùng thanh âm thì ứng đáp, cùng tính khí thì tìm nhau, Thành ngữ Hán - Việt) thì các nhóm này tự hấp dẫn lẫn nhau. Trong pháp thoại Thế Tôn đã răn nhắc chúng ta rằng ‘phải khéo phân biệt các giới loại sai biệt’. Nghĩa là có nhiều hội, nhóm với phát ngôn, hành động, ứng xử theo quan điểm đặc thù của nhóm hội mình. Thành ra phải sáng suốt và tỉnh táo để chọn bạn mà chơi, vì gần mực thì đen mà gần đèn thì sáng.
Có thể xem tín, giới, tàm quý là những thiện pháp cao quý, là pháp hành căn bản để có hiện tại và tương lai tốt lành. Trong quá trình nỗ lực hướng thiện của tự thân, kết duyên với những hội nhóm có tín, giới, tàm quý là điều hết sức cần thiết. Đây là những hội nhóm thiện tri thức chuyên hướng thiện, hành thiện có thể soi sáng, hỗ trợ cho chúng ta kiện toàn nhân cách, thăng hoa đạo đức và tâm linh. Ngược lại, cần tránh duyên với những hội nhóm không có tín, phạm giới, không có tàm quý vì ta sẽ bị các pháp bất thiện ô nhiễm, theo họ gây tạo thêm nhiều ác nghiệp.
--
NHỮNG DẤU HIỆU ĐỂ NHẬN BIẾT
VỊ THÁNH A-LA-HÁN
Hầu hết chúng ta là người phàm nên mắt thường không thể nhận biết các bậc Thánh, nhất là bậc Thánh A-la-hán “lậu hoặc đã đoạn tận, điều cần làm đã làm xong, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, đã dứt sạch các kết sử của hữu, với chánh trí đã giải thoát”. Chỉ có Đức Phật và các vị A-la-hán mới có đủ khả năng và thẩm quyền để xác chứng Thánh quả cao tột này.
Ấy vậy mà đời nay có người đã tự nhận, các đệ tử tung hô thầy mình đã chứng đắc A-la-hán. Dĩ nhiên, nếu ai chưa chứng A-la-hán mà nói đã chứng thì mắc tội Đại vọng ngữ. Còn vị đã chứng Thánh quả A-la-hán rồi, thực sự đó là phước lành cho thế gian, dù các ngài chẳng nói ra nhưng chúng ta cũng có thể nhận diện được qua một số dấu hiệu bên ngoài. Đức Phật nói có chín dấu hiệu để nhận diện một vị Thánh A-la-hán.
“Một thời, Phật ở tại nước Ca-duy-la-vệ, trong khu rừng của Ưu-bà-tắc Miến-kỳ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo 1250 người…
Chư Hiền, có Tỳ-kheo là lậu tận A-la-hán, điều cần làm đã làm xong, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, đã dứt sạch các kết sử của hữu, với chánh trí đã giải thoát; vị ấy không làm chín việc. Những gì là chín? Một là không giết. Hai là không lấy trộm. Ba là không dâm. Bốn là không nói dối. Năm, không xả đạo. Sáu, không bị dục chi phối. Bảy, không bị sân chi phối. Tám, không bị sợ hãi chi phối. Chín, không bị nghi chi phối. Chư Hiền, ấy là vị lậu tận A-la-hán đã làm xong điều cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, đã dứt sạch kết sử của hữu, chánh trí giải thoát, xa lìa chín sự.
(Kinh Trường A-hàm, kinh Thanh tịnh, số 17 [trích])
Pháp thoại này cho thấy, người trần mắt thịt như chúng ta cũng có thể dựa vào những biểu hiện bên ngoài để nhận biết một vị Thánh. Bậc Thánh A-la-hán ngoài các phẩm chất tuệ sáng, tâm sạch bên trong rất khó thấy thì hành vi và ứng xử trọn lành lại dễ dàng nhận ra. Trước hết, các ngài sống với đầy đủ phạm hạnh “không giết, không lấy trộm, không dâm, không nói dối”. Thế mới biết, những giềng mối đạo đức mà một cư sĩ tại gia đã phát nguyện giữ gìn, những trọng giới của hàng xuất gia nguyện suốt đời thọ trì, đến khi chứng Thánh quả mới thực sự trong sạch. Bấy giờ, sự toàn thiện biểu hiện một cách tự nhiên như nước đã lọc, thuần khiết và thanh tịnh.
Với bậc đã chứng Thánh, đời sống của các ngài chính là đạo nên “không xả đạo”. Tuy các ngài vẫn sống trong cuộc đời ô trược với chúng ta nhưng tất cả đều rực rỡ, lung linh và sáng sạch của cõi tịnh độ. Những ngày tháng còn duyên ở đời thì miệt mài hoằng hóa, lợi ích chúng sinh. Hết duyên thì hóa Vô dư Niết-bàn.
Chúng sinh thì muôn kiếp ngụp lặn trong dục và sân. Ưa thích thì mong cầu, chạy theo và sở hữu. Không ưa thích thì chạy trốn, cố xua đuổi, ghét bỏ, bực bội, tức giận. Với bậc Thánh thì thấy tất cả là huyễn hóa, vô thường nên chỉ tùy duyên tiếp vật mà không một mảy may dính mắc. Ngay cả những chuyện tốt cũng tùy duyên, thuận pháp nói gì đến chuyện không hay. Tham dục và sân hận rất dễ bộc phát, chúng đến bất thình lình nên không phải bậc Thánh thì dù khéo đến mấy cũng có lúc biểu hiện ra. Thế nên, đừng bao giờ nghe đồn hay a dua đồng ca hợp xướng mà hãy sống gần chư vị một thời gian, tất sẽ hiểu vị ấy có đích thực là bậc Thánh hay không?
Đặc biệt, bậc Thánh thì “không bị sợ hãi, không bị nghi chi phối”. Đối với đạo thì đã sáng tỏ, không còn mảy may nghi ngờ. Đối với mọi sự biến động thuận nghịch ở đời thì an nhiên chẳng hề dao động. bậc Thánh sống tùy duyên thuận pháp tự tại với ngay cả cả chuyện trọng đại nhất của đời người là sinh tử. Ai có chín biểu hiện này thì đó là những dấu hiệu giúp ta nhận ra được bậc Thánh đang hiện hữu ở đời.
--
TU HÀNH CẦN PHẢI VỮNG TÂM
Con đường tu hành vốn dĩ không bằng phẳng, nhiều chông gai nếu không bền tâm vững chí thì lắm lúc cũng bị lung lay, chuyển hướng. Để đi đến đạo quả hay chí ít là giữ vững chí hướng xuất trần thì giới, định, tuệ là ba chân vạc kiên cố để trụ vững giữa bão giông nghiệp lực và tám ngọn gió đời.
Nhất là khi người tu đang chơi vơi giữa một bên là rũ bỏ ngũ dục và một bên kia là chưa nếm được đạo vị, hạnh phúc của đời cũng không mà hỷ lạc của đạo cũng không. Ngay đây nếu giới không chắc, tâm không định, tuệ không sáng thì chí nguyện tu hành cũng dễ bề ngả nghiêng, thối thất.
“Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo-ni A-lạp-tỳ ở trong tinh xá chúng Tỳ-kheo-ni tại vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm Tỳ-kheo-ni A-lạp-tỳ đắp y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong, trở về tinh xá, cất y bát, rửa chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai phải, vào rừng An-đà tọa thiền.
Khi ấy ma Ba-tuần nghĩ: ‘Hôm nay Sa-môn Cù-đàm đang ở nước Xá-vệ, vườn Cấp Cô Độc, có đệ tử là Tỳ-kheo-ni A-lạp-tỳ, ở trong tinh xá chúng Tỳ-kheo-ni, tại vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm đắp y ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong, trở về tinh xá, cất y bát, rửa chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai phải, vào rừng An-đà tọa thiền. Nay ta nên đến đó làm trở ngại’. Liền biến thành thiếu niên tướng mạo đoan chánh, đến chỗ Tỳ-kheo-ni ấy nói với Tỳ-kheo-ni rằng:
- A-di muốn đi đâu? Tỳ-kheo-ni đáp:
- Hiền giả, tôi muốn đi đến chỗ thật xa.
Lúc ấy, ma Ba-tuần liền nói kệ:
Đời không thể ra khỏi
Viễn ly để làm gì?
Trở về hưởng ngũ dục
Chớ về sau hối hận.
Khi ấy Tỳ-kheo-ni A-lạp-tỳ tự nghĩ: ‘Người này là ai mà muốn khủng bố ta? Là người hay phi nhân? Hay là người gian giảo?’. Cô liền nghĩ đây ắt là ác ma muốn não loạn ta. Biết rõ rồi, liền nói kệ:
Đời có thể ra khỏi
Ta tự biết sở đắc
Này ác ma hèn hạ
Ngươi không biết đạo kia
Như dao bén tác hại.
Ngũ dục cũng như vậy
Như thân bị xẻo thịt
Khổ thủ uẩn cũng vậy
Như điều ngươi vừa nói.
Người vui hưởng ngũ dục
Người đó không thể vui
Nơi đó đáng sợ hãi
Lìa tất cả hỷ lạc.
Vất bỏ mọi tối tăm
Vì diệt tận tác chứng
An trụ lìa các lậu
Biết rõ ngươi ác ma
Hãy mau chóng tự diệt.
Bấy giờ ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Tỳ-kheo-ni A-lạp-tỳ này đã biết rõ tâm ta’. Rồi buồn bã không vui, liền biến mất”.
(Kinh Tạp A-hàm, kinh số 1198)
Pháp thoại này ghi nhận sự kiện ma Ba-tuần muốn nhiễu loạn Tỳ-kheo-ni A-lạp-tỳ bằng luận điệu làm gì có sự giải thoát mà miệt mài dấn thân giữ giới và thiền định, hãy nhanh chóng quay về hưởng dục kẻo về sau tiếc nuối, hối hận trong muộn màng.
Hẳn chúng ta chưa đủ phước để ma Ba-tuần chiếu cố (thường các vị gần đắc quả giải thoát thì Ba-tuần mới ra tay), và chúng ta cũng không biết chuyện ấy hư thực thế nào nhưng tiếng nói của nội ma từ trong vọng tâm thôi thúc thì ai cũng thấy biết được.
Hãy tiếp tục độc hành trên con đường thiền định hay dừng lại và vui với bả lợi danh. Đây là câu hỏi lớn và thật sự đấu tranh với ma chướng của nội tâm của người tu chân chính. Cho nên tu hành trước phải thấy đạo, sau đó mới vững tâm tiến đạo.
Tỳ-kheo-ni A-lạp-tỳ đã thấy đạo, biết rõ ngũ dục chỉ tạm vui nên kiên định, quyết chí vượt ra ngoài sinh tử. Những ai chiến thắng từ trong nội ma thì ngoại chướng sẽ tiêu trừ, sẽ thẳng tiến đến đạo quả giải thoát.
--
CÚNG DƯỜNG CHA MẸ
Cha mẹ là Trời Phật
Sau khi Thành đạo, Đức Phật du phương hoằng hóa gần khắp xứ Ấn Độ, ngoài dạy đạo giác ngộ và giải thoát, Ngài luôn đề cao đạo hiếu, phụng dưỡng và kính thờ cha mẹ. Bấy giờ, xã hội Ấn Độ đa phần theo Bà-la-môn giáo, tin tưởng nhiệt thành vào đấng Phạm Thiên. Với các tín đồ đạo Bà-la-môn, Phạm Thiên là đấng tối tôn, toàn năng và sáng tạo. Đức Phật đã tôn vinh cha mẹ lên vị trí tột cùng, là Phạm Thiên, là đạo sư, xứng đáng được cúng dường. “Phạm Thiên, này các Tỳ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Các Đạo sư thời xưa, này các Tỳ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Đáng được cúng dường, này các Tỳ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Vì cớ sao? Giúp đỡ rất nhiều, này các Tỳ-kheo, là mẹ cha đối với con cái, nuôi chúng lớn, dưỡng dục chúng, giới thiệu chúng vào đời”. (Kinh Tăng chi bộ, chương Ba pháp, phẩm 4. Sứ giả của trời, phần 31. Ngang bằng với Phạm Thiên).
Quả thật, công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ bao la như trời biển. Cha mẹ là thánh thần nơi chốn cao xanh, kính quý tột cùng nên không lạ gì khi tôn xưng cha mẹ là Phật, “Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế”. Việc phụng dưỡng cha mẹ cũng không đơn thuần là chăm sóc người thân mà là cúng dường. Đảnh lễ cha mẹ với tâm chí thành chí kính, tôn trọng hết mực, sau đó mới kính cẩn dâng cúng các thứ cần dùng.
“Mẹ cha gọi Phạm Thiên,
Bậc Ðạo sư thời trước
Xứng đáng được cúng dường
Vì thương đến con cháu.
Do vậy, bậc Hiền triết
Ðảnh lễ và tôn trọng
Dâng đồ ăn đồ uống
Vải mặc và giường nằm
Thoa bóp (cả thân mình)
Tắm rửa cả tay chân.
Với sở hành như vậy
Ðối với mẹ cha
Ðời này người Hiền khen
Ðời sau hưởng Thiên lạc” (Sđd).
Từ việc phụng dưỡng cha mẹ, Đức Phật đã tôn vinh hiếu tâm, hiếu hạnh thành cúng dường, nhờ đó mà thành tựu công đức lớn và quả báo tốt đẹp. “Có hai pháp dành cho người phàm phu, được công đức lớn, thành quả báo lớn, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi. Thế nào là hai pháp? Là cúng dường cha, mẹ. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy thường nhớ hiếu thuận, cúng dường cha mẹ. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này”. (Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Thiện tri thức).
Trả ơn đủ cho cha mẹ
Dù tận tâm phụng dưỡng cha mẹ như cúng dường bậc Phạm Thiên, Đức Phật nói vẫn chưa làm đủ, chưa trả ơn đủ. Không phải con cái không tận tâm, chẳng sẵn lòng mà chính là công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ quá lớn. “Nếu một bên vai cõng mẹ, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy hết trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội và dù tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ cha và mẹ. Hơn nữa, nếu có an trí cho cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha”. (Kinh Tăng chi bộ, chương Hai pháp, phẩm Tâm thăng bằng, phần Đất).
Chắc người đời không ai cúng dường cha mẹ, thể hiện tâm hiếu và hạnh hiếu đúng theo đoạn kinh trên. Mà giả như có làm được cũng chưa tròn chữ hiếu. Đây cũng là lời cảnh tỉnh cho những ai đang tự hào đã báo hiếu trọn vẹn, đầy đủ. Mặt khác, chúng ta có thể cúng dường cha mẹ vừa ý trong hiện đời, nhưng khi chia tay nhau, âm dương đôi ngả, liệu cha mẹ mình có được thong dong? Sáu cõi mênh mang, đường trần mờ mịt, con hiền cháu thảo và ngay chính đương sự đều hằng mong sinh về cõi lành nhưng không phải muốn là được. Ngay đây, Đức Phật khéo nhắc rằng sự báo hiếu thực sự đầy đủ khi nào các bậc cha mẹ được thành tựu “Nay vui, đời sau vui”.
Vì thế, ngoài cúng dường vật chất và tình cảm thì con cháu cần cúng dường Pháp (Dhamma) cho cha mẹ. Lúc về già, cha mẹ nhờ con cái chăm sóc nhưng khi từ bỏ tất cả để ra đi, các bậc cha mẹ phải nương nhờ Pháp. Nghiệp sẽ dẫn dắt chúng ta, người thân không giúp được. Có đình đám cầu cúng to lớn đến mấy cũng trợ thêm phước duyên mà thôi, không quyết định được việc sẽ về đâu. Nghiệp dẫn ta đi nên cần tìm cách chuyển nghiệp. “Này các Tỳ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, người ấy khuyến khích, hướng dẫn, an trú cha mẹ vào lòng tin; đối với cha mẹ theo ác giới, người ấy khuyến khích, hướng dẫn, an trú cha mẹ vào thiện giới; đối với cha mẹ có lòng xan tham, người ấy khuyến khích, hướng dẫn, an trú cha mẹ vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác trí tuệ, người ấy khuyến khích, hướng dẫn, an trú cha mẹ vào trí tuẹ?.?̂. Cho đến như vậy, này các Tỳ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ cha và mẹ” (Sđd).
Nếu cha mẹ chúng ta đã an trú vào lòng tin Tam bảo, có giới hạnh, biết bố thí, buông bỏ si mê tà kiến thì chắc chắn sẽ sinh về cõi lành, tương lai tốt đẹp. Song hành với phụng dưỡng là trợ duyên cho cha mẹ đi chùa, tu niệm, tạo phước, vun bồi các hạnh lành chính là hiếu đạo trọn vẹn, giúp cha mẹ an vui ở hiện tại và đời sau.
Thờ cúng cha mẹ
Sau khi cha mẹ mất đi, con cháu tỏ lòng thành kính thông qua việc cầu nguyện và thờ cúng. Vẫn biết người mất sẽ theo nghiệp mà tái sinh vào cảnh giới tương ứng nhưng con cháu vẫn có thể hồi hướng phước đức cho họ. Hiếu đạo được thể hiện qua việc lo tang lễ, sau đó là thờ phụng và cúng kính. Việc thờ di ảnh cùng lư hương, bát nước và tổ chức cúng giỗ hàng năm nhằm hồi hướng phước báu cho cha mẹ và giúp con cháu nhớ về cội nguồn, niệm ân sinh thành dưỡng dục, đoàn kết và thương yêu giúp đỡ lẫn nhau.
Cầu siêu cho cha mẹ khi qua đời chính là hiếu sự, cúng dường cha mẹ. Đức Phật dạy: “Này Gia chủ, có năm trường hợp người con phải phụng dưỡng cha mẹ: Được nuôi dưỡng, con sẽ phụng dưỡng cha mẹ; con sẽ làm tròn bổn phận đối với cha mẹ; con sẽ giữ gìn gia đình và truyền thống; con bảo vệ tài sản thừa tự; con sẽ làm tang lễ khi cha mẹ qua đời”. (Kinh Trường bộ, kinh 31. Giáo thọ Thi-ca-la-việt).
Sau tang lễ, con cháu còn chú trọng và thành tâm thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ cùng những người thân đã mất. Tài sản làm ra, người đệ tử Phật trích một phần để lo việc hiến cúng. “Này Gia chủ, với tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy do sức mạnh cánh tay, do mồ hôi đổ ra, đúng pháp, thâu hoạch đúng pháp. Với tài sản ấy, vị ấy tổ chức năm loại lễ hiến cúng; hiến cúng cho bà con, hiến cúng cho khách, hiến cúng cho các vong linh quá khứ, hiến cúng cho vua, hiến cúng cho chư Thiên” (Kinh Tăng chi bộ, chương Bốn pháp, phẩm Nghiệp công đức). Rõ ràng, hiến cúng cho các vong linh quá khứ và hiến cúng chư thiên khá tương đồng với phong tục cúng giỗ và cúng thí thực của người Phật tử Việt Nam.
Hạnh hiếu ngang bằng trời
Không quá ngạc nhiên khi Đức Phật ca ngợi tâm hiếu và hạnh hiếu là phẩm tính của chư thiên, chính xác là Phạm Thiên. “Những gia đình nào, này các Tỳ-kheo, trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên” (Kinh Tăng chi bộ, chương Ba pháp, phẩm 4. Sứ giả của trời, phần 31. Ngang bằng với Phạm Thiên). Vì trong loài người mấy ai làm tròn câu hiếu đạo. “Rồi Thế Tôn lấy một ít đất trên đầu móng tay và bảo các Tỳ-kheo: Các ông nghĩ thế nào, này các Tỳ-kheo, cái nào là nhiều hơn, một ít đất trên đầu móng tay hay là quả đất lớn này? Bạch Thế Tôn, cái nhiều hơn là quả đất này, còn ít hơn là đất trên đầu móng tay. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, ít hơn là các chúng sinh có hiếu kính với mẹ, với cha và nhiều hơn là các chúng sinh không hiếu kính với mẹ, với cha”. (Kinh Tương ưng bộ, chương 12, phẩm Bánh xe lược thuyết, phần Hiếu kính mẹ-Hiếu kính cha).
Thế nên “Hiếu dưỡng với mẹ cha/Là điềm lành tối thượng” (Kinh Tiểu bộ, kinh Điềm lành). Có hạnh phúc nào bằng khi mỗi ngày được cúng dường cha mẹ. Có xúc cảm nào sâu nặng bằng lúc đốt nén hương lòng tưởng nhớ đến người xưa. Có thể nói, khi tâm hiếu tìm về, lúc tỏ bày hạnh hiếu, dù cha mẹ hiện còn hay đã mất, nỗi lòng con cháu đều mênh mang hạnh phúc. Và đó cũng là kết quả tất nhiên dành cho những người con hiếu thảo: thành tựu phước báo lớn, hiện đời được an lạc, tiếng tốt đồn xa, đời sau sinh cõi trời.
0 / 5 (0Bình chọn)
Bình luận
Gửi bình luận
Bình luận