Logo Footer

Bước đầu học Phật - HT. Thích Thanh Từ

Tác giảHẠC TUỆ

BƯỚC ĐẦU HỌC PHẬT

Những ghi chép khi đọc cuốn “Bước đầu học Phật”, tác giả: Thiền sư Thích Thanh Từ.

Nguồn: https://thientruclam.info/ht-thich-thanh-tu/buoc-dau-hoc-phat/dao-phat

1.       Người học Phật khi mới vào đạo không hiểu đúng tinh thần Phật giáo, về sau sẽ hỏng cả một đời tu.

2.       Hiểu Phật giáo một cách đúng đắn, mới mong thành một Phật tử chân chánh.

3.       Bản chất của Phật giáo là chân lý, là sự thật.

4.       Chúng sanh đang chìm đắm trong biển khổ sanh tử, dong thuyền ra cứu vớt họ là sự ra đời của đạo Phật. Ðêm tối vô minh che phủ tất cả chúng sanh, cầm đuốc sáng soi đường cho họ là trách nhiệm của đạo Phật. Ðạo Phật đến với chúng sanh trong một niềm khát vọng vô biên, một sự trông chờ tột độ. Nhưng, con thuyền có giá trị cứu mạng khi nào người sắp chết chìm biết bám lấy nó. Ngọn đuốc là một cứu tinh, khi nào những kẻ lạc đường trong đêm tối khao khát muốn ra. Con thuyền và ngọn đuốc sẽ vô bổ, nếu những kẻ sắp chết chìm và người lạc trong đêm tối chấp nhận cái gì mình đang chịu. Cũng thế, đạo Phật sẽ vô ích với những chúng sanh chấp nhận sanh tử và an phận trong vô minh. Vì thế, đạo Phật có mặt trên thế giới này đã hơn hai ngàn năm trăm năm, còn biết bao nhiêu người nhìn nó với cặp mắt xa lạ. Song những kẻ đã nếm được pháp vị, thấy công đức của đạo Phật đối với mình vô vàn không sao kể hết. Thật đúng với câu “Phật hóa hữu duyên nhân”.

5.       Tất cả những vọng tưởng điên đảo là hiện tướng vô minh, vọng tưởng lặng lẽ là tánh giác thanh tịnh.

6.       Những lời dạy của đức Phật được gọi là Kinh, bởi hai lý do: hợp lý và hợp cơ. Một chân lý dù cao siêu đến đâu, nếu không ứng dụng được vào cuộc đời, chân lý ấy trở thành không nền tảng, chỉ lơ lửng trên không trung. Chân lý không áp dụng được cho người sẽ là vô ích. Truyền bá sự vô ích thật là làm một điều vô nghĩa. Lời Phật dạy đúng chân lý gọi là hợp lý, song lời dạy ấy cũng phải hợp căn cơ trình độ của con người đương thời thì họ ứng dụng mới được. Hợp lý hợp cơ là hai điều kiện không thể thiếu trên phương diện truyền bá.

7.       Nếu nói thẳng bản hoài của Ngài, chỉ muốn chúng sanh thành Phật là mục tiêu duy nhất.

8.       Chúng ta hữu duyên hữu phước mới được gội nhuần chánh pháp, đừng cô phụ phước duyên của mình, mỗi chúng ta phải nỗ lực tiến tu. Có thưởng thức được pháp vị rồi, chúng ta mới tùy duyên lợi ích kẻ sau. Làm thế nào cho ngọn đèn chánh pháp nối tiếp mãi không tắt trên cõi thế gian này. Ðền ơn Phật tổ không gì hơn cứu độ chúng sanh. Sự cứu độ thực tế nhất, phải ngay cõi đời này, với những người có mặt hiện nay, khiến họ chuyển mọi khổ đau trở thành an lạc. Phật giáo không phải cái gì xa vời, không phải sự ước mơ viển vông, mà hiện tại thực tế.

9.       Chọn kỹ rồi sẽ đi, là thái độ của kẻ khôn ngoan; nhắm mắt đi càn phó mặc đến đâu hay đến đó, là kẻ khờ dại, mang cả cuộc đời làm một trò chơi. Người trí phải nhìn kỹ, phải xem xét tường tận trước khi mình cất bước đi trên một con đường nào.

10.   Sống đúng tinh thần Lục hòa là việc ít có trên nhân gian này. Bởi vì người thế gian sống đua đòi giành giật hơn thua với nhau, không bao giờ họ sống hòa thuận như thế được. Lục hòa là: thân hòa chung ở, miệng hòa không tranh cãi, ý hòa đồng vui, giới luật hòa cùng giữ, hiểu biết hòa cùng giải, lợi hòa chia đồng. Sáu điều này là tinh thần của Tăng. Nếu có người đầu tròn áo vuông mà không sống theo tinh thần Lục hòa cũng không gọi là Tăng. Quy y Tăng là quy y những vị sống đúng tinh thần Lục hòa.

11.   Tam Bảo tự tâm: tánh giác vốn có là Phật bảo, lòng từ sẵn có là Pháp bảo, tâm hòa hợp là Tăng bảo. Tam Bảo bên ngoài đánh thức Tam Bảo bên trong. Khi Tam Bảo cả trong và ngoài cùng viên dung, thì đường tu không trở ngại.

12.   Đối tượng của Đạo Phật là con người. Đức Phật vì con người mà chỉ bày con đường thoát khổ tới vui chân thật. Hạnh phúc chân thật trong Đạo Phật là: Biết tiết chế trong các ham muốn, Tôn trọng hạnh phúc của mọi người, Thành thật yêu mến nhau, Tôn trọng sanh mạng của nhau, Tôn trọng quyền tự do căn bản của nhau. Ngũ giới là nền tảng đạo đức để đem lại hạnh phúc cho con người, xây dựng con người sống đúng với ý nghĩa văn minh của nhân loại. Ngũ giới là cơ bản đạo đức của người Phật tử. Giữ trọn vẹn ngũ giới, con người ta sẽ có phước lành để sống lâu, tài sản sung túc, thân thể đẹp đẽ, mọi người ưa chuộng, trí tuệ sáng suốt.

13.    Vì muốn được yêu thương, thì cần phải có sự tin tưởng lẫn nhau, thì cần phải giữ chữ tín, cần phải trung thực, cần phải không dối gạt. Muốn được yêu thương thì phải chân thành, trung thực!

14.   “Làm việc có nghĩa do tâm tỉnh ngộ, làm việc vô nghĩa do tâm mê mờ”.

15.   Đi chùa lễ Phật là một việc làm do động cơ tỉnh ngộ thúc đẩy, với một tinh thần cố gắng vươn lên, gầy dựng cho mình một ngày mai sáng đẹp. Đi chùa là để học hỏi chánh pháp, tập tu đức hạnh. Đi chùa hỏi đạo là đúng tinh thần của Phật tử. Các Phật tử cần mến thương nhau, đoàn kết nhau, khích lệ nhau, cùng nỗ lực leo lên cho đến tận đỉnh ngọn giác ngộ. Đi chùa được nghe chư Tăng Ni chia sẻ giáo pháp, sẽ làm sáng tỏ thêm đường lối tu và hành. Có nghe giáo lý, có học công hạnh của Phật, Bồ tát, thì Phật tử mới biết phương hướng tu hành. Phật tử cần học và hành theo lời Phật dạy. Đi chùa nghe giảng là điều tối cần thiết của Phật tử.

16.   Lễ lạy Phật:
+ Vì quý kính một đấng lòng từ bi tràn trề, trí giác ngộ viên mãn. Lạy Ngài để thấy mình bé nhỏ, ti tiện, cống cao... Lạy Ngài để noi theo gương Ngài.
+ Vì muốn dẹp lòng ngã mạn. Bản tính con người là hơn thì ghen, hèn thì chê. Được chút ít có vẻ hơn người thì vênh vang, tự đắc, nghênh ngang. Vì thế người khác chán ghét, tiêu mòn công đức. Khi ta lạy các bậc cao đức, tự ta thấy mình thấp kém, thế là không bị thói cao ngạo sai khiến, thế là công đức phát sinh! Kính thầy mới được làm thầy. Ta kính vị nào, ta có xu hướng chuyển tâm, chuyển đời theo công hạnh của vị đó! Muốn giảm bớt tánh xấu, ta tập tành đức hạnh, kính lễ các bậc đức hạnh, là điều cần thiết vậy!
+ Vì muốn noi gương. Học theo trí tuệ nơi Ngài, từ bi nơi Ngài, công hạnh cao vời nơi Ngài. Đời đời muốn học theo Ngài.
+ Lạy tinh thần từ bi giác ngộ của Phật được tượng trưng qua hình tượng chứ không phải là lạy bức tượng đơn thuần.
+ Lạy Phật là động cơ đẩy mạnh chúng ta tiến mãi trên đường Giác Ngộ.

17.   Sám hối:
+ Lỡ phạm tội lỗi: Phát lồ sám hối, thì tội lỗi chóng sạch.
+ Phàm phu không sao tránh khỏi tội lỗi. Sám hối, quyết không tái phạm, sẽ khiến tội lỗi ngày càng sạch dần, đến ngày nào đó hoàn toàn thanh tịnh.
+ Hèn nhát không sám hối là chấp nhận sự lui sụt của mình.
+ Bỏ sám hối, khó ai từ phàm phu tiến lên thành Thánh được.
+ Sám hối là ăn năn, hối cải. Giá trị căn bản nhất là hổ thẹn và cầu tiến.
+ Sám hối không phải do ai bắt buộc, mà do chính bản thân thấy cần thiết phải làm. Lòng chí thành tha thiết sẽ giúp chúng ta sạch hết mọi tội lỗi.
+ Có những lỗi mắc đi mắc lại nhiều lần, vì tâm ta yếu mềm, vì hoàn cảnh bất khả kháng, nên đành dẫm lại lỗi xưa. Khi đó, ta vẫn sám hối không dừng. Nếu dừng, ta sẽ càng ngập lỗi, càng xuống bờ vực khổ đau.
+ Khi một phàm nhân quyết tâm dừng lỗi, hối cải, người này có thể chưa thành Thánh, nhưng chắc chắn là người hiền. Siêng năng sám hối và tu sửa, chắc chắn sẽ thành bậc Thánh mai kia!
+ Dám sám hối, siêng sám hối, lâu ngày công đức cũng được đầy đủ. Tu mà không gan dạ sám hối, quả là người hèn nhát che dấu không thể nào tiến lên được.
+ Sám hối chí thành, tha thiết, xấu hổ những lỗi đã làm, kiên quyết không tái phạm, người này không có tội lỗi nào mà không đến ngày sạch, dù có tạo tội lỗi đến bao nhiêu, họ vẫn là người tốt ở mai sau.

18.   Cúng dường Tam Bảo:
+ Người phát tâm tán trợ bồi bổ tô đắp cho Tam Bảo thường còn ở thế gian thì công đức biết bao kể xiết. Vì Tam Bảo thường còn ở thế gian, chúng ta phát tâm cúng dường, quả là việc làm tự lợi lợi tha đầy đủ.

19.   Phật giáo độ sanh:
Vì tính cách độ sanh nên những người truyền giáo có bổn phận hằng giảng dạy cho tín đồ thông hiểu Phật giáo. Mỗi ngôi chùa là một nơi giảng dạy kinh điển, mỗi buổi lễ là mỗi lần giảng dạy giáo lý. Có thế, người Phật tử mới biết rõ đường lối tu hành, mới thâm nhập được giáo lý cao siêu. Phật giáo đã tự hào có một kho tàng kinh điển dồi dào, mà người Phật tử kể cả Tăng, Ni, đa số dốt nát về giáo lý. Lỗi ấy tại ai? Bởi sự truyền bá còn sơ sót yếu kém, chính Tăng, Ni phải chịu trách nhiệm.

20.   Luân hồi:
Ðạo Phật nói lý luân hồi cũng là phát minh một sự thật của vạn vật và con người. Vì đối tượng của đạo Phật là con người, nên chung qui đặt nặng về sự luân hồi của con người. Con người nhận hiểu thấu đáo về lý luân hồi, nếu họ không có khả năng thoát khỏi luân hồi, tự mình chọn lựa cuộc luân hồi an vui và thoải mái. Nếu họ có khả năng thoát ly luân hồi, do hiểu luân hồi tiến tu đạo giải thoát. Biết được lý luân hồi, chúng ta biết được lẽ công bằng của con người, cũng nhận lấy sự tự do căn bản nơi chúng ta. Mọi mê tín ỷ lại đều tiêu tan, do biết ta là người quyết định thân phận của mình. Tất cả oán hờn tủi hận đều sạch hết, vì có ai áp đặt sự đau khổ cho mình mà than thở. Quả chúng ta là con người độc lập tự do của chính mình trong hiện tại và vị lai. Dù chưa giải thoát, biết được lý luân hồi, chúng ta cũng sáng suốt và an ổn ngay trong đời sống này. Mọi tương lai đều nằm trong tay chúng ta, chúng ta trọn quyền chọn lấy một tương lai nào theo sở thích của mình.

21.   Tam độc:
+ Tam độc hại người đến bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp. Tam độc là nguồn đau khổ của chúng sanh, là cội rễ bất an của nhân loại, chúng ta phải hiểu nó và cố gắng trừ nó.
+ Si: Si là si mê. Không biết đúng lẽ thật giả, không nhận ra phải trái, không thấy được tà chánh, ngu tối mờ mịt là tướng trạng của Si. Cái si mê căn bản nhất là nhận lầm thân giả dối làm cái ta chân thật, tâm sanh diệt làm cái ta vĩnh cửu. Nơi ta đã nhận lầm thì đối tất cả đều lầm, phát sanh bao nhiêu thứ tội lỗi về sau đều gốc từ cái lầm này mà ra.
Nói ngắn gọn: Si là sự hiểu biết không đúng đắn về bản chất của sự vật sự việc. Coi tất cả mọi thứ đều là thật có, tâm phân biệt ta người. Phải hiểu tất cả đều là tướng có, tánh không. Dùng tướng để hành đạo, dùng tánh để tu đạo! (Hạc Tuệ biên soạn)
+ Tham: Do chấp thân là thật nên khởi tham lam mọi nhu cầu vật chất cho thân. Lòng tham là cái hang không cùng, cái túi không đáy, cho nên không biết đến đâu là đủ. Không có, tham lam muốn có; đã có, tham lam muốn thật nhiều, càng được lại càng tham. Tham mà không toại nguyện liền nổi sân. Quả thật tham là nhân đau khổ vô hạn, con người đến khi sắp tắt thở vẫn chưa thỏa mãn lòng tham. Tham có nhiều loại,…
+ Sân: Sân là nóng giận. Do tham lam mà không toại nguyện, hoặc bị ngăn trở liền nổi sân. Một khi nổi sân thì mọi tội ác nào cũng dám làm, mọi khổ đau nào cũng dám tạo. Tất cả sự hung tợn dữ dằn ác độc đều do sân mà phát sanh. Sân có loại bộc phát, có loại thầm kín. Sân là mối hiểm họa cho mình cho người, mọi khổ đau trong đời này đến muôn kiếp đều do sân gây ra.
+ Trừ tam độc: Quán vô thường, Quán duyên sanh.

22.   Từ bi:
+ Yêu thương không phân biệt!
+ Tất cả chúng ta đừng mong đấng nào cứu khổ, chỉ chấp tay cầu nguyện mọi người đều phát tâm từ bi. Ngọn lửa khổ đau dập tắt, khi trận mưa từ được gội nhuần. Chân thành mong ước mọi người đều phát lòng từ bi.

23.   Mê tín, chánh tín:
+ Về cá nhân chúng con, vì thấy rõ hiểu biết nông cạn, hạn chế, nên e dè không dám dán nhãn, đặt tên, bình phẩm gì với các Tôn giáo, Đạo bạn, các tín ngưỡng dân gian. Tuy nhiên, chúng con lựa chọn lối đi đề cao tinh thần Bác ái, bình đẳng. Phần này, nhiều vị có thể không cùng quan điểm với Hòa thượng, đây là quan điểm cá nhân của mỗi vị, riêng cá nhân chúng con, chúng con xin phép không bình luận. (Hạc Tuệ).
+ Hiểu rõ lý nhân quả, nhân duyên để chúng ta có cách sống tốt với nhau, có đường đi an toàn để phát triển tâm linh cá nhân. (Hạc Tuệ)

24.   Tội phước:
+ Mọi sự an vui và đau khổ gốc từ tội phước mà sanh ra. Tội là làm phiền, đau khổ cho người; Phước là làm lợi ích cho người. Làm tội gặp khổ, làm phước gặp vui.
+ Phước hữu lậu, làm cho ta và người đều vui trong vòng sanh tử:
. Cứu mạng
. Bố thí
. Trinh bạch
. Nói chân thật, làm nguồn gốc để tin yêu nhau, do đó mọi sự mến thương được bền bỉ.
. Nói đúng lý, để giúp mọi người nhận được lẽ chánh, thoát khỏi ngờ vực. Mặc người phi pháp, ta vẫn đúng pháp.
. Nói hòa thuận. Chia ly làm thống khổ, hòa thuận làm an vui. Đem lời nói gắn kết tình yêu thương nhân loại.
. Nói nhã nhặn. Để làm dịu sự bực dọc của người. Khiến mình dễ mến, vui vẻ. Nhã nhặn mãi mãi.
. Từ bi, nhẫn nhục, chánh kiến. Mang lại tình thương cho chúng sanh là tiêu diệt mầm tham lam độc ác. Nỗi khổ của chúng sanh ngập trời đều do lòng tham ác của con người tạo nên. Chúng ta tận lực gây dựng tình thương để giảm thiểu đau khổ cho chúng sanh. Tập lòng nhẫn nhục để chịu đựng mọi cảnh ngang trái mà không sanh sân hận. Có nhẫn nhục được, chúng ta mới giữ được tình thương lâu dài với chúng sanh. Chánh kiến là nhận định đúng đắn, đưa chúng ta đi đúng hướng, sáng suốt vui tươi. Do chánh kiến mới có nói đúng, làm đúng. Ba nghiệp tạo phước, chánh kiến là đội binh tiên phong. Tóm lại, ba nghiệp làm mười điều trên là tu phước hữu lậu. Phước này khiến chúng ta qua lại trên con đường an vui tươi đẹp. Mặc dù còn tương đối sanh tử, song đến đâu cũng là hài lòng mãn ý.
+ Phước vô lậu:
Phước vô lậu là sự an vui tuyệt đối không giới hạn. Do thoát ly sanh tử nên an vui miên viễn. Bởi sự an vui nào mà còn sanh tử đều tạm bợ đối đãi. Chỉ có tiêu diệt hết mầm sanh tử, an trụ vô sanh, mới là an vui viên mãn. Tu phước vô lậu là chúng ta nhắm hướng vô sanh làm mục đích, hàng ngày buông xả cái chủ động sanh diệt và dùng trí thấy rõ các tướng giả dối sanh diệt, không lầm, không kẹt nó. Cứ thế tiến mãi, cho đến bao giờ viên mãn mới thôi. Mình làm như vậy, chỉ dạy người làm như vậy là tu phước vô lậu.
(Ngu ý của con: Chính là nhận thức và tu theo triết lý vạn vật tướng có, tánh không)
+ Tránh tội, làm phước. Tội là cấy mầm đau khổ nơi con người, Phước là gieo hạt hạnh phúc cho chúng sanh.

25.   Nghiệp báo:
+ Nghiệp báo nói đủ là nghiệp quả báo ứng. Nghiệp là hành động tạo tác theo thói quen của mỗi người. Có nghiệp ác, nghiệp thiện, định nghiệp, bất định nghiệp,… Báo là đền trả, là kết quả của thói quen đã tạo. Hiện báo, sanh báo, hậu báo.
+ Chúng ta hiên ngang thọ nhận tất cả quả khổ vui, mà không có một lời oán hờn than trách. Vì tất cả đều do hành động của chúng ta tạo nên, giờ ta nhận quả! Khi rõ nghiệp từ đâu mà ra, ta sẽ chủ động chọn lựa cho thân, khẩu, ý nơi mình.
+ Sự báo ứng cũng chính nơi mình hiện ra. Mỗi khi chúng ta tạo nghiệp lành hay dữ, mắt chúng ta thấy cảnh ấy, tai chúng ta nghe tiếng ấy, hạt giống lành dữ ấy đã rơi vào tàng thức chúng ta. Kẻ đối tượng bị chúng ta làm khổ vui cũng thế, do mắt thấy, tai nghe nên hạt giống biết ơn hay thù hằn đã rơi vào tàng thức của họ. Khi nào đó, cả hai gặp lại nhau thì hạt giống ân oán ấy trỗi dậy, khiến hai bên tạo thêm một lần nghiệp lành dữ nữa. Cứ thế tạo mãi khiến nghiệp càng ngày càng dầy, ân oán càng ngày càng lớn. Như khi chúng ta gặp một người đang mắc phải cảnh khốn đốn cơ hàn, hình ảnh buồn thảm khổ đau của họ hiện bày đầy đủ. Chúng ta trong tay có đủ phương tiện, liền giúp họ qua cơn khốn đốn, lúc đó trên gương mặt khổ đau đã ngả sang gương mặt vui tươi, sáng sủa. Chứng kiến hiện tượng ấy, hạt giống vui tươi đã rơi vào tàng thức chúng ta.
+ Nếu mỗi ngày chúng ta đều gieo vào tàng thức những hạt giống vui tươi, đến khi thân này sắp hoại, chúng ta không còn đủ nghị lực làm chủ, những hình ảnh vui tươi ấy sẽ hiện đến với chúng ta, mời chúng ta đến cảnh vui tươi. Ngược lại, mỗi ngày chúng ta cứ gieo rắc khổ đau cho người, những hạt giống khổ đau chứa đầy trong tàng thức chúng ta, đến khi hơi tàn, lực tận những hình ảnh đó sống dậy, đuổi bắt đánh đập chúng ta, khiến chúng ta phải chạy chui vào cảnh khổ. Ðó là nghiệp báo khổ vui của mai kia. Nghiệp báo không phải từ đâu đến, mà chính từ tàng thức chúng ta hiện ra.
+ Nghiệp báo không thể nghĩ bàn: Sự góp nhặt gieo vào tàng thức là một lẽ thật, không phải việc huyễn hoặc, do không tưởng bịa ra. Ðây thử cử một thí dụ, khi chúng ta muốn học thuộc lòng một bài thơ. Chúng ta đọc một lần, hai lần, cho đến nhiều lần tự thấy nó thuộc. Cái thuộc ấy là do đâu, chẳng qua mỗi lần chúng ta đọc, hạt giống ấy rơi vào tàng thức, đọc nhiều lần, hạt giống ấy càng trưởng thành mạnh mẽ, đây gọi là thuộc. Thuộc xong chúng ta không đọc nữa, thỉnh thoảng trong tàng thức nó trỗi dậy, mỗi lần trỗi dậy, chúng ta ôn lại đôi ba phen, thế là thuộc lại càng thuộc. Từ miệng chúng ta đọc, hạt giống thơ rơi vào tàng thức gọi hiện hạnh huân chủng tử. Từ tàng thức thơ trỗi dậy, gọi là chủng tử khởi hiện hạnh. Chúng ta ôn lại đôi ba lần, gọi là hiện hạnh huân chủng tử. Thế là sự huân khởi không thể nghĩ bàn. Nếu cả đời chúng ta huân chủng tử nào nhiều nhất, đời sau sanh ra hạt giống ấy sống dậy sớm nhất. Bởi thế mới có các vị thần đồng, xuất hiện, như Mạc Ðĩnh Chi ở Việt Nam mười hai tuổi đã thông suốt thi pháp, Bạch Cư Dị ở Trung Hoa chín tuổi đã làm thơ, Pascal ở Pháp mười hai tuổi đã thông Kỷ hà học…, cho đến cùng học một lớp mà mỗi đứa bé đều có khả năng riêng.
Khi trong kho tàng thức còn chứa chủng tử thì sự huân khởi không thể nghĩ bàn. Vì thế nó có sức mạnh lôi kéo chúng ta đi thọ sanh trong lục đạo không có ngày dừng. Thế nên, nói đến nghiệp báo là nói đến sự luân hồi sanh tử.
+ Làm sao hết nghiệp?
Nghiệp đã do chúng ta gây tạo biến chủng tử huân vào tàng thức. Muốn hết nghiệp cũng do chúng ta khéo loại hết những chủng tử nghiệp ở trong tàng thức ra. Khi kho tàng thức sạch chủng tử thì sức mạnh lôi vào sanh tử không còn. Khi chủng tử còn trong kho ấy, gọi là tàng thức, là nhân sanh tử. Khi chủng tử trong kho ấy sạch hết, gọi là không Như Lai tàng, là kho Như Lai trống, tức là dứt mầm sanh tử. Vì thế muốn hết nghiệp sanh tử, chúng ta phải ứng dụng những phương pháp tu để tiêu diệt các hiện hạnh từ chủng tử dấy khởi. Ví như khi chúng ta học thuộc lòng một bài thơ, song mỗi lần nhớ lại, chúng ta đều bỏ qua, thời gian lâu bài thơ ấy sẽ quên bẵng. Những chủng tử khác cũng thế, mỗi khi khởi hiện hạnh, chúng ta đều thông qua chẳng cho hình ảnh sống lại, lâu ngày tự nhiên nó mất. Phương pháp niệm Phật, Trì chú, Tọa thiền đều nhắm vào mục đích này.
Niệm Phật, Trì chú, Tọa thiền – là để làm tan dần những chủng tử nghiệp ở trong tàng thức!

26.   GIÁC NGỘ PHÁP GÌ ỨNG DỤNG TU NGŨ THỪA PHẬT GIÁO? Chương này cực kỳ hay!
+ Tất cả pháp Phật dạy đều trước phải giác ngộ rồi sau mới ứng dụng tu. Cũng như trước biết đường rồi sau mới đi, trước hiểu rồi sau mới làm. Sự giác ngộ này là nhận thấy lẽ thật ngay thế gian không phải huyền nhiệm siêu viễn, mà là cụ thể thực tế. Bởi giác ngộ rồi mới tu, nên đúng tinh thần đạo giác ngộ. Chúng ta là Phật tử phải thấu rõ lẽ này, đừng lầm lẫn ứng dụng tu một cách mù quáng. Không hiểu mà làm là việc làm càn bướng dại khờ. Chúng ta phải thắp sáng ngọn đuốc chánh pháp soi bước đi, để khỏi vấp ngã rơi hố lọt hầm
+ Mười điều lành tích cực: cứu mạng chúng sanh, bố thí, trinh bạch, nói chân thật, nói hòa hợp, nói đúng lý, nói nhã nhặn, tập từ bi, tập nhẫn nhục, chánh kiến. Mười điều này nhân thù thắng nên được quả thù thắng nhất trong sáu đường. Vì thế, người Phật tử tu hành, nếu biết còn luân hồi nên chọn cái luân hồi này là tốt đẹp hơn cả. Ðó là ứng dụng tu Thiên thừa, qua sự giác ngộ lý Nhân quả, Luân hồi.
+ Tu pháp Thập nhị nhân duyên - Mười hai nhân duyên, khởi đầu là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử. Thế là “cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh”. Vô minh là mê lầm về bản ngã, nên mất thân theo nghiệp dẫn là Hành. Nghiệp thúc đẩy thức đi thọ sanh là Thức. Thức tựa vào sự phối hợp của tinh cha huyết mẹ là Danh sắc. Danh là thức, sắc là tinh huyết cha mẹ, hợp thành thai bào. Thai bào có đủ sáu căn là lục nhập. Khi ra khỏi lòng mẹ sáu căn tiếp xúc với sáu trần là Xúc. Do sự tiếp xúc có cảm thọ khổ, vui, không khổ không vui là Thọ. Bởi cảm thọ nên sanh yêu thích là Ái. Từ yêu thích khởi tâm bảo thủ là Thủ. Do bảo thủ tạo thành nghiệp thiện ác là Hữu. Ðã có nghiệp thiện ác là có sanh đời sau là Sanh. Ðã có sanh là phải già chết là Lão tử. Trong mười hai nhân duyên liên hệ quá khứ hiện tại vị lai, cứ thế xoay vần không có ngày cùng. Ðây là mười hai nhân duyên theo chiều lưu chuyển.
Biết rõ thân tâm này do nhân duyên hòa hợp không có chủ thể là vô ngã. Trí tuệ đạt lý vô ngã này dẹp tan mê lầm về bản ngã là Vô minh. Thế là vô minh diệt nên Hành diệt, Hành diệt nên Thức diệt, Thức diệt nên Danh sắc diệt, Danh sắc diệt nên Lục nhập diệt, Lục nhập diệt nên Xúc diệt, Xúc diệt nên Thọ diệt, Thọ diệt nên Ái diệt, Ái diệt nên Thủ diệt, Thủ diệt nên Hữu diệt, Hữu diệt nên Sanh diệt, Sanh diệt nên Lão tử diệt. Từ đây vòng xúc xích mười hai nhân duyên tan rã. Chính là câu “cái này không nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt”. Ðây là quán mười hai nhân duyên theo chiều hoàn diệt.
Do thấu suốt nhân duyên, đạt được trí vô ngã nên chứng quả Duyên giác. Ngang đây chấm dứt sự luân hồi, hằng an lạc Niết-bàn.
+ Nhẫn nhục là sức cam chịu mọi hoàn cảnh khổ đau bức bách tủi nhục đến với tự thân. Chúng ta chiến thắng mọi sự thúc giục bức bách của bản thân tạo ra và chiến thắng những gì khổ đau tủi nhục từ bên ngoài đưa đến. Cho đến những điều oan trái không đâu, hoặc cực kỳ vô lý, chúng ta cũng nhẫn chịu được. Có khi phải trả giá rất đắt về danh dự, về thân thể, mà vẫn cam chịu để tròn hạnh nhẫn nhục. Cho nên nhẫn nhục khi đến cứu kính là một sức hùng dũng phi thường, vì đã chiến thắng hoàn toàn bản tánh ái ngã và bảo vệ ngã. Ðược thế mới gọi là nhẫn nhục ba-la-mật.

27.   TINH THẦN GIÁC NGỘ CỦA ĐẠO PHẬT QUA NGÀY LỄ VU LAN:
+ Ngày rằm tháng bảy gọi là lễ “tự tứ”, có nghĩa là: Tự: mình, Tứ: mặc tình, tức là chính mình đi ra giữa đại chúng, giữa chư Tăng cầu thỉnh tất cả chư Tăng xét thấy mình có những sơ sót nào, những lỗi lầm nào thì yêu cầu hoan hỉ chỉ dạy để cho mình nhận lấy lỗi lầm, ăn năn chừa cải. Ðó là Tự tứ. Người biết tỉnh giác là người có ý chí cầu tiến thì đối với việc làm của họ có thể việc gì cũng xong. Đối với sự giúp đỡ người thì việc giúp đỡ nào cũng thành tựu
+ Hết khổ không phải Phật cứu mình mà chính là nhờ mình đổi được quan niệm của mình
+ Vì mình đeo một quan niệm đen tối nên cảm thấy mình xấu xa đau khổ. Giờ đây mình xem cái xấu xa đau khổ đó nó có từ đâu? Khi tìm lại thì quan niệm xấu xa đau khổ không còn nữa. Nhìn thẳng nó thì không thấy có, lúc đó liền hết khổ. Hết khổ ngay trong cái mình nhìn thẳng lại nó, mình trông không thấy nó. Như vậy để thấy rõ cái khổ hay không khổ gốc ở mê lầm hay giác ngộ. Cho nên người giác ngộ là người thoát khổ, người mê lầm là người đau khổ. Đó là then chốt của đạo Phật. Đ?o Phật cứu khổ không có nghĩa là cứu người này ở trong địa ngục đem bỏ trên trời. Hay là đem người này ở trong ngạ quỉ đưa lên một cõi nào khác. Cứu khổ chính là chỉ dạy cho người ta giác ngộ. Mà giác ngộ rồi liền đó được giải thoát
+ Nếu họ không biết cái đó dở, không biết cái đó là tai họa thì họ cứ đi sâu, đi sâu mãi không bao giờ ra khỏi khổ. Cho nên có giác ngộ mới được giải thoát. Có giác ngộ mới hết khổ. Đó là sự thật mà lâu nay chúng ta ít có quan niệm rõ. Chúng ta cứ tưởng rằng đi đến chùa cầu cúng rồi Phật làm cho mình hết khổ. Đó là cái hiểu lệch lạc của chúng ta. Tinh thần Phật tử đi chùa phải là tinh thần cầu học đạo để thấy phương pháp tu hành, để mình được giác ngộ. Mà giác ngộ chính là tự mình cứu khổ cho mình, chớ không phải ai cứu khổ cho mình được.
+ Những hàng Thanh văn sau khi nghe Phật nói pháp Tứ đế: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế, các vị nhận đúng như thật, đúng tinh thần giác ngộ. Nhận rõ ràng không nghi ngờ gọi là chứng đạo hay thấy đạo. Khi thấy đạo, chứng đạo rồi bước vào hàng Tu-đà-hoàn lần đến A-la-hán.
+ Hiểu được lý vô thường rồi, chúng ta mới có thể thương nhau, giúp đỡ nhau mà không có lòng tham gom góp về mình.
+ Như vậy tinh thần đạo Phật đến chỗ cứu kính giác ngộ mới thấy rằng chính mình và mọi người, chính mình và các hoàn cảnh đều không phải là vấn đề hai ba. Ngay nơi tâm niệm mình chuyển hướng hết những cái xấu xa của mình thì hoàn cảnh nào cũng là hoàn cảnh tốt đẹp. Ở trong chỗ nào cũng là chỗ tiến bộ, chớ không phải xấu xa. Xấu xa chính vì cái ấp ủ tham lam, ấp ủ sân si của mình nên thấy xấu xa. Dứt hết những cái đó thì tự nhiên nó sáng sủa tốt đẹp.
+ Thế nên các Thiền sư lúc nào cũng thấy cõi đời là đẹp. Đẹp như một bài thơ. Tại vì thấy ở đâu cũng là tốt, ở đâu cũng là sáng sủa. Còn chúng ta vì mang cặp kính ủ rũ buồn bã, nên thấy cái gì cũng buồn. Phải vậy không? Nếu mình mang cặp kính tươi sáng trong lòng, nhìn cái gì mà không vui. Phải vậy không? Khi nào trong quí vị tâm hồn đương ưu tư buồn bã thì nhìn thấy cái gì cũng buồn bã theo. Nếu tâm hồn quí vị sáng suốt phấn khởi vui vẻ thì nhìn cái gì chẳng vui vẻ. Cho nên chúng ta cần tạo một tâm hồn vui vẻsáng sủa và tỉnh giác thì ngoại cảnh theo đó mà sáng sủa. Nó không còn tối tăm mờ mịtnữa. Tối tăm mờ mịt đó là cái mê đen tối của tham sân si, chớ không phải gì khác.
+ Hôm nay là ngày Phật hoan hỉ tôi nhắc lại những điểm then chốt cho tất cả quí vị cùng chúng tôi, mọi người chúng ta đều nỗ lực vươn lên. Làm sao luôn luôn tỉnh giác từ thấp lên cao và luôn luôn với tâm niệm cầu tiến lợi mình lợi người để cho chính mình càng ngày càng được an vui, xã hội càng ngày càng thêm tốt đẹp. Đó mới là tinh thần giác ngộ của đạo Phật.

28.   PHÁP TU CĂN BẢN CỦA PHẬT TỬ:
+ Người tu cũng vậy, chiến thắng được nội ma, ngoại ma, mới có ngày bước lên đài vinh quang của con người vẹn toàn đức hạnh.
+ Người tu cũng thế, phải thấy rõ từng tâm niệm, từng hành động của mình, một phút giây lơi lỏng, bọn giặc phiền não nổi dậy, phải bị mất giới thân tuệ mạng. Do đó, không thể chỉ tu trong giờ tụng kinh, niệm Phật, ăn chay mà phải tu trong mọi lúc mọi giờ. Ðược vậy mới mong chiến thắng bọn ma quân.
+ Tu là dẹp bỏ những thói hư tật xấu, tuổi trẻ chưa tập nhiễm những cái dở ấy, ngang đây biết tu thì dễ biết dường nào. Người chưa biết uống rượu, không tập uống rượu thật là dễ. Người đã ghiền rượu, bỏ không uống rượu là thiên nan vạn nan. Biết tu từ thuở nhỏ thì thuận lợi dễ dàng biết mấy, để đa mang nhiều bệnh nhiều tật rồi mới tu, thật là khó khăn trăm bề. Song người có ý chí mãnh liệt thì cái khó nào cũng làm được.
+ Ðể thành một con người hoàn hảo hơn, Phật dạy phải tu thập thiện. Pháp Thập thiện mới thật sự đầy đủ tu chuyển ba nghiệp. Chuyển ba nghiệp ác của thân, không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm. Chuyển bốn nghiệp ác của khẩu: không nói dối, không nói lật lọng (ly gián), không nói hung ác, không nói vô nghĩa (thêu dệt), chuyển ba nghiệp ác của ý: bớt tham, bớt sân, không tà kiến (chấp lệch, sai). Mười điều lành này xây dựng một con người toàn hảo. Chúng ta phân tích từ tế đến thô sẽ thấy pháp Thập thiện công hiệu không thể kể hết. Một con người không bị tham lam xúi giục thì sẽ làm chủ mình trước mọi thứ cám dỗ của trần gian. Tài sắc danh lợi không lung lạc được, người này mới hoàn toàn thanh bạch cao thượng. Không bị nóng giận áp đảo, chúng ta mới bình tĩnh sáng suốt giải quyết mọi vấn đề. Làm chủ được nóng giận, chúng ta không nói lời thô ác, không có hành động tàn nhẫn. Ðời chúng ta không bị hối hận bao giờ, người thân chúng ta không hề chán ghét.
Sự việc xảy đến, giải quyết một cách sáng suốt khôn ngoan chúng ta mới đủ khả năng đảm đang việc lớn được. Mọi lý thuyết, mọi vấn đề, chúng ta không thấy một chiều, không nhìn phiến diện, quần chúng mới dễ cảm thông, mới thật lòng yêu mến. Tà kiến là cái thấy lệch lạc, thấy sai lầm cục bộ, dễ sanh tranh cãi, dễ sanh oán hờn. Không tà kiến là một tâm hồn cởi mở, bao dung, suốt thông, trong sáng. Không tà kiến, chúng ta hòa hợp được mọi người, mọi chánh kiến khác nhau. Cuộc sống hạnh phúc hay khổ đau, nẩy mầm từ thông cảm nhau hay chống đối nhau. Không tà kiến mà lại có chánh kiến, thật hạnh phúc thay cho kiếp con người. Thân khẩu trở thành hay hoặc dở đều phát nguồn từ ý tốt hay xấu. Sở dĩ Thập thiện xây dựng con người hoàn hảo là chú trọng đến ý nghiệp. Pháp ngũ giới mới chuyển hóa hai phần nổi, thân khẩu mà thôi. Bởi vậy Phật tử chúng ta không phải chỉ dừng ở ngũ giới mà phải tiến lên Thập thiện mới thật đầy đủ.
+ Chúng ta thấy cốt yếu của đạo Phật là dạy Phật tử phải chuyển ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện
+ Mỗi người hoàn thiện thì xã hội mới toàn mỹ. Chúng ta tu chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện là tự mình thẳng tiến trên bước đường đạo đức, đóng góp sự vui tươi an lạc cho gia đình mình, xây dựng hoàn hảo cho xã hội văn minh. Văn minh ở đây là văn minh đạo đức, văn minh của tình thương chia ngọt sẻ bùi, văn minh của những con người thanh bai cao thượng. Cho nên trong kinh Thập thiện nói người tu Thập thiện sẽ được sanh lên cõi trời, gọi là Thiên thừa Phật giáo. Song với chúng tôi, người tu Thập thiện là con người hoàn hảo, trong xã hội có đa số người tu Thập thiện là xã hội văn minh hoàn hảo. Ðây là Phật pháp giáo hóa dân gian.

29.   Tu trong mọi hoàn cảnh:
Tóm lại, chúng ta là con người chưa có ai toàn hảo, cần phải biết tu để chận đứng những điều xấu dở xuất phát từ ba nghiệp của mình. Ðồng thời chúng ta khéo nuôi dưỡng những hành động tốt đẹp từ thân miệng ý phát ra. Dừng ác nuôi thiện là điều không thể thiếu, nơi con người muốn vươn lên. Khước từ tu hành, là chúng ta khước từ sự tiến bộ, là khước từ mọi đẹp đẽ cao quí, khước từ sự an vui hạnh phúc. Nếu ai quyết chí vươn lên, muốn sống cuộc đời an lạc, muốn gia đình hạnh phúc, muốn xứ sở huy hoàng, tu là chủ yếu thực hiện những điều mong muốn ấy.

30.   HOA SEN TRONG BÙN
+ Ngài thấy con người cũng thế, khi sanh ra và lớn lên trong vòng mê dục, một phen tỉnh giác con người sẽ tiến lên bậc giác ngộ khó gì. Thế là, Ngài lấy hoa sen để biểu trưng cuộc sống và giáo lý của Ngài. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là hình ảnh cụ thể nhất.
+ Hoa sen mọc chỗ nhớp nhúa mà thơm tho tươi đẹp, sống trong đời nhiễm nhơ mù tối, người Phật tử chúng ta phải khéo dùng trí tuệ vượt ra để cứu mình, và cứu người. Cái quí của hoa sen là sanh từ chốn bùn lầy mà tinh khiết, cái cao cả của người tu là sống trong mọi dục lạc nhiễm ô mà vượt ra an toàn siêu thoát. Hoa hường, hoa lan thơm hơn hoa sen, mà không được nhắc tới, vì sanh ở chỗ đất sạch. Nếu Thái tử là người từ trên trời rơi xuống mà đắc đạo thì không có giá trị gì. Chính trong vòng kềm tỏa của dục trần, mà thoát được mới là bậc đại hùng.
+ Nếu chúng ta sanh ra đã là Thánh thì còn nói gì tu. Chính vì chúng ta mang đầy đủ thói hư tật xấu trong mình, chứa đầy tham sân si trong lòng, cho nên gặp cảnh thì nhiễm, trái ý thì sân, quẳng chúng thoát ra, thật là điều khó khăn trăm phần, ai làm được điều đó, đáng cho chúng ta chấp tay tán thán.
+ Bởi vì chúng ta chạy theo vật dục nhân gian nên phải khổ sở gian nan. Nếu can đảm ném phắt hết, vượt ra ngoài vòng trần lụy, quả là can đảm phi thường. Có thể, mới buông thõng tay bước lên ngôi nhà Phật Tổ được. Song phải mạnh dạn dứt khoát, một lần bỏ đi không thèm ngó lại. Chớ đừng học thói nhầy nhụa, dùng dùng thẳng thẳng cắt không đứt, bứt không rời, một chân bước tới hai chân bước lui, không làm nên trò trống gì, chỉ chuốc trò cười cho hàng thức giả. Bởi vậy nên nhà thiền thường dùng câu “giết người không ngó lại” là ý này. Phải can đảm dứt khoát thì việc khó mấy cũng thành công.
+ Sống ngay trong lòng trần tục mà khéo biết đạo vẫn thấy an vui. Duyên cảnh đổi thay tùy thời linh động, như khi đói thì ăn, khi mệt thì nghỉ, đừng cố chấp cứng nhắc mà tự khổ đau. Phật đã sẵn nơi ta, khỏi phải nhọc nhằn sang đông tìm tây. Cái khôn ngoan khéo léo của chúng ta là “đối cảnh tâm không động”, chính nơi đây là thiền rồi, còn thưa hỏi đâu nữa. Người học đạo nhận thấy Phật đã sẵn nơi tâm mình, song muốn Phật hiện thì tâm đừng chạy theo cảnh. Ðây là lối tu thật giản đơn, thật cụ thể, mà người đời khó tin khó nhận.
+ Bởi vì không có vị nào đã là thánh rồi thành thánh, mà tất cả đều bị bao vây bởi phiền não dục trần. Cái đặc điểm của các ngài là nhạy cảm sớm thức tỉnh và anh dũng khi cần thoát nó.
+ Chúng ta đâu có cung vàng điện ngọc, đâu có cung phi mỹ nữ… mọi dục lạc tìm cầu rất khó, nếu thoát nó thì hết sức nhẹ nhàng, chỉ cần một cái nhảy nhẹ đã ra khỏi rồi, thế mà chúng ta cứ chần chừ không ưng nhảy. Ðây là yếu điểm muôn kiếp chịu trầm luân của chúng ta.

31.   BỒ-TÁT SỢ NHÂN CHÚNG SANH SỢ QUẢ
+ Lấy bố thí thắng xan tham; Trì giới độ phá giới; Nhẫn nhục độ sân hận; Tinh tấn độ giải đãi; Thiền định độ tán loạn; Trí tuệ độ ngu si. Đây là nội minh, tự giác.
+ Bồ tát thông suốt Phật pháp, thông suốt nội minh, thông suốt ngoại minh, thông suốt y dược, thông suốt nghề hay, thông suốt ngoại ngữ. Sẵn sàng giúp đỡ chúng sinh bằng tiền của công sức; Nói lời hòa nhã nhiếp phục chúng sanh; Xông pha làm điều tốt đẹp cho người; Lăn xả vào mọi ngành nghề để cùng làm, cùng sống, cùng khổ với chúng sanh.
+ Thật tài, thật đức mới lo chuyện giáo hóa cho người. Mang tài năng và trí tuệ đi vào cuộc đời.
+ Bồ tát là người thấy rõ nhân ác để tránh, nhân thiện để tạo.

32.   CHẤP LÀ GỐC CỦA ĐẤU TRANH
+ Cố chấp là nguyên nhân của đau khổ.
+ Chấp mình đúng, người sai, thế là đấu tranh.
+ Kinh Phú Lâu Na – Cực kỳ hay! (Hạc Tuệ)
+ Câu chuyện Người mù rờ voi, vô cùng ý nghĩa với những con người phàm tục. Thích tranh luận hơn thua, đấu đá, vì họ có cái nhìn phiến diện, không đầy đủ, thiếu trí tuệ. Chính thiếu trí tuệ mới muốn tranh cãi. Thiếu trí tuệ mới muốn đấu tranh đổ xương máu. Giống mình thì ưa, khác mình thì ghét, đây chính là nhân của khổ đau luân hồi.
+ Muốn sống vui chung: Thông cảm cho nhau, chấp nhận nhau, bỏ cái dính chấp của mình, mở mang trí tuệ mình, để hiểu mới yêu được người.
+ Bổ túc cho nhau mới hay, chê trách nhau là ngàn lần dở.
+ Thấy mình phải, thấy người sai, là căn bệnh muôn đời của phàm nhân.
+ Sáu căn mắt tai mũi lưỡi thân ý không dính mắc sáu trần sắc thanh hương vị xúc pháp, thì đó là Giải thoát, là Niết Bàn an vui!
+ Tâm không trụ, không dính vào cảnh trần, thì sanh tâm Phật!
+ Như Lai biết tất cả mà không chấp trước, được giải thoát tịch diệt.
+ Sáu căn là gốc luân hồi, sáu căn cũng là gốc giải thoát.
+ Chấp là si mê.
+ Ngòi đấu tranh đã châm lên, thì lửa đau khổ sẽ lan khắp!
+ Mỗi khi chúng ta thức tỉnh bỏ được mê chấp là an lạc vĩnh viễn.
+ Căn trần không dính nhau là giải thoát. Không dính mắc là tự do giải thoát. Nếu thấy căn trần là tướng duyên hợp, không thật, là phá được chấp ngã (căn), chấp pháp (trần), mới là hoàn toàn giải thoát.
+ Còn thấy khổ, là vì còn dính mắc, phân biệt ta và người, nghĩa là chưa thông sự thật: Vạn vật tướng có tánh không! (Hạc Tuệ đúc rút).

33.   CỐT LÕI CỦA ĐẠO PHẬT
+  Giác ngộ đau khổ, giác ngộ lý nghiệp dẫn, giác ngộ tu nghiệp thiện, giác ngộ dứt nghiệp.
+ Mọi khổ đau trong đời sống đều là do hành động xấu xa của con người chuốc lấy.
+ Sự tồn tại của thân hiện nay và sự tiếp nối của thân mai sau đều do nghiệp. Còn nghiệp là còn sự sống và tiếp nối sự sống. Nghiệp chủ động trong vòng sanh tử của chúng sanh.
+ Giác ngộ tu nghiệp thiện
+ Nghiệp xuất phát từ thân miệng ý, nhưng chủ động là do Ý. Người tu muốn dừng thoát luân hồi, phải tìm cách dừng Ý. Khi nào ý nghiệp vắng bặt rồi, chắc chắn mình thoát ly sinh tử. Pháp môn tu nào cũng chỉ một mục tiêu dừng bặt tâm lăng xăng ý thức. Tu thiền phải được định, niệm Phật phải nhất tâm.
+ Bình nhật thì chúng ta thấy tâm tưởng lăng xăng, khi nhìn lại thì mất bóng bặt dạng. Thế là hư dối không thật. Biết rõ nó hư dối thì nó không còn có khả năng lôi cuốn dẫn dắt chúng ta nữa. Không chạy theo, không bị dẫn, chẳng an là gì? An tâm là nhìn thẳng vào bộ mặt hư dối của nó, nó tự tan biến, còn gì nữa mà động.
+ Tin chắc không nghi là thầm ngộ.
+

34.   CHỮ TỨC TRONG ĐẠO PHẬT
+ Sắc tức là không, không tức là sắc.
+ Phiền não tức bồ đề. Biết dừng phiền não, biết chuyển, biết xả, tức Bồ đề. Hết mê là tỉnh, hết khổ là vui. Đang tối tăm, bật đèn sáng lên là sáng rực. Phiền não là si mê, bực bội, đau khổ. Bồ đề là giác ngộ yên tĩnh, an vui. Ôm phiền não để đi tìm bồ đề là sự không thể có. Chỉ khéo  ngồi yên cho phiền não lắng xuống thì Bồ đề hiện tiền. Kẻ khờ thấy nước đục khác với nước trong, người trí biết nước vẫn trong, do bụi hòa lẫn nên đục. Chỉ cần lóng bụi đất là nước thành trong. + Chư Phật thấy rõ tất cả chúng sanh đều có tánh giác, vì vô minh phiền não che đậy nên trở thành mê, một khi khéo tu lóng sạch vô minh phiền não liền trở lại giác. Vô chứng vô đắc là vì không còn mê, trở lại tánh giác bản chất của mình. Chúng sanh đã sẵn tánh giác, một khi thức tỉnh huân tu, tánh giác sẽ hiện tiền. Đức Phật cũng là một chúng sanh như chúng ta, nhưng Ngài đã khéo lóng vô minh phiền não chìm lặng, trở thành Giác Ngộ.
+ Có sẵn tánh giác mà cứ quên, mải tạo nghiệp đi trong sanh tử luân hồi, càng luân hồi càng tạo nghiệp, nghiệp mê chồng chất nên thành mê muội loạn cuồng. Một phen thức tỉnh, dừng bước luân hồi, nghiệp mê băng hoại, mới tin “ta là Phật sẽ thành”.
+ Sanh tử tức Niết Bàn. Do hết khổ là vui, chứ không phải cái vui từ đâu mang đến.
+ Chấp chặt phải quấy là ngu xuẩn khổ đau. Biết buông xả linh động tùy thời là người khôn ngoan an ổn.
+ Hết khổ là vui. Vui bên ngoài chỉ tạm khỏa lấp. Khi hết nguồn bên ngoài, lại khổ nguyên vẹn như trước.
+ Sạch nghiệp tức Niết Bàn. Nghiệp do mình tạo, phải tìm ra động cơ tạo nghiệp, diệt động cơ đó, thế là sạch nghiệp.
+ Tâm lăng xăng là tạo nghiệp. Tâm an định là Niết Bàn. Dừng ngắn, Niết Bàn ngắn, dừng dài, Niết Bàn lâu dài. Tâm an định hẳn thì Niết Bàn viên mãn.
+ Bảo người không làm ác, người không nghe, mình sanh tâm tức giận – thế là mình thành ác. Biết mình đang ác mà ngừng, thì mình lại thành thiện.
+ Chấp chặt phải quấy là khổ đau. Buông xả linh động tùy thời, là người khôn ngoan an ổn.
+ Trả nghiệp là Huyễn, vậy sao còn đau buồn?
+ Nhất thiết chủng trí, là trí biết tất cả mọi việc, mọi loại, mọi điều.

+ Chữ tức đối trong vạn vật: Môn hóa học, chứng minh sự vật không tự tồn tại, không có cá thể độc lập, không giữ nguyên một vị trí. Một vật thể này thay đổi chất liệu, liền biến thành một vật thể khác. Sự biến hóa đổi thay trong mỗi vật thể đã là bằng chứng hùng hồn về lý không cố định của sự vật. Thấy được lý không cố định là thấy tột bản tánh của sự vật. Những nguyên tố hợp thành sự vật tuy nhiều song chẳng lắm, do sự kết hợp tăng giảm biến thành muôn vàn sự vật có đủ thiên hình vạn trạng trên thế gian này. Quả là trong vật này có những nguyên tố của vật khác, trong vật khác có những nguyên tố của vật này. Thế nên, nói “A tức B, B tức A” là đúng lẽ thật đâu có sai ngoa.
+ Chữ tức trong tu hành:
Muôn vật tùy duyên thay hình đổi dạng, có cái gì cố định mà chấp. Bệnh lớn của con người là cố chấp, chấp càng nặng thì khổ càng nhiều. Mỗi người chấp theo cái thấy, cái nghe, cái sở học, cái suy nghĩ, cái tưởng tượng của mình hoặc của nhóm người thân mình, nếu người khác thấy đồng cái thấy của mình, nhóm mình thì thân; thấy khác cái thấy cái chấp của mình, nhóm mình thì thù. Ðây là gốc đấu tranh gây ra đau khổ cho nhân loại. Sự vật là một dòng biến thiên, mà mình nhìn theo cái chấp cố định thì làm sao thấy được lẽ thật, làm sao đem lại sự an bình. Con người khủng khiếp hãi hùng khi nghe tin mình sắp chết. Sợ chết vì chấp thân là chắc thật lâu dài, bỗng dưng nó sắp tan hoại nên hoảng sợ. Sự nghiệp tài sản cũng chấp cố định bền lâu, xảy ra tai nạn hỏa hoạn, binh đao, trộm cướp… khiến phải tan hoại, người ta sẽ đau khổ vô hạn. Tình cảm bạn bè, thân hữu…, chấp mãi mãi không đổi thay; một khi gặp cảnh đổi thay, người ta sẽ thảm sầu vô kể. Người nắm vững nguyên tắc “các pháp không cố định”, mọi cố chấp trên từ từ tan rã, khổ đau, sầu thảm, hoảng sợ, hãi hùng dần dần tan biến theo mây khói. Thân sắp chết, sự nghiệp tan vỡ, bạn bè chia lìa… cũng là lẽ đương nhiên trong dòng biến thiên của vạn vật. Chúng ta chưa can đảm cười trước cảnh ấy, song cũng can đảm nhìn chúng trôi qua với tâm niệm an bình.

35.   THẤY THÂN GIẢ DỐI CÓ PHẢI QUAN NIỆN CHÁN ĐỜI KHÔNG?
+ Thấy thân giả dối để quăng mình vào đời khổ đau, cứu đời.
+ Thấy thân huyễn hóa để tận dụng thân này tạo chút an vui trong cuộc đời tạm bợ.
+ Thấy thân huyễn hóa để trừ tam độc trong tâm.
+ Thấy thân huyễn hóa để đạt đến cái Không huyễn hóa, là điều chân thật ẩn tàng trong thân ấy. Đó là Pháp thân, tự tánh, Thiên chân Phật, Phật tính, Tánh giác, điều rất giản dị, lặng lẽ, trong sáng, tràn đầy trong mỗi chúng ta. Đó là phần chìm của tảng băng toàn vô minh ở trên mặt nước. Phần nổi lên, đó là sự chấp ngã, chấp pháp, vọng tưởng, vô minh điên đảo. Phần chìm dưới đáy, là viên minh châu chói sáng ngời. Trong sách, Hòa thượng và các Tổ chỉ dạy, vô minh như là sóng nước, còn bản chất nước thì tĩnh lặng, an bình. Đó là chân tâm, là Phật tánh. Dừng vọng niệm, thì chân tâm hiển bày. Tâm thể lặng lẽ tràn đầy trong sáng hiện tiền, không cầu mong cũng tự thấy. (Đến với thiên nhiên, đến nơi thanh tịnh, đến nơi yêu thương, ta có cơ hội thánh hóa tâm hồn, trở về bản tâm trong sạch hiện tiền). Dừng vọng niệm là điều vô cùng khó, phải dùng trí Bát nhã, thấy ngã, thấy pháp đều là huyễn hóa, thì hành giả đạt đến tâm thể chân thật không huyễn hóa.
+ Bi trí tròn đủ: Trí tuệ khai phát, hành giả tháo gỡ lần những mối bòng bong trong tâm tư, đến khi mọi việc suôn sẻ, trí giác tròn sáng, là xong phần tự giác. Phần giác tha do tâm từ bi thúc đẩy, đến lúc viên mãn thì công phu hành giả mới được tròn đầy. Từ bi cứu khổ, ban vui cho chúng sinh, đủ cả cứu chúng sinh được ấm no về vật chất, được đủ đầy về tinh thần.
+ Can đảm hy sinh vì hạnh phúc tha nhân: Cần phân biệt kỹ hành động hy sinh của mình, là đúng đắn hợp lẽ đạo không? Vì mình hay vì người, hay vì một động lực nào khác? Tốt đẹp nhất là vì số đông, không ngã mạn, không liều lĩnh, với tâm thuần thiện từ bi cứu khổ!
+ Thấy thân giả dối, để diệt trừ tam độc, giải thoát sanh tử, tích cực vì người, can đảm hy sinh.
+ Mọi khổ đau, mọi hèn nhát, phát nguồn từ bản ngã khổng lồ.
+ Phá tan bản ngã, có lợi ích nào cho tha nhân mà không dám làm, sự đau khổ nào mà không dám cứu, sự nguy hiểm nào mà chẳng xông pha?

36.   SỐ MẠNG, NGHIỆP BÁO ĐỒNG HAY KHÁC?
+ Nghiệp do những tâm tư hành động của mình từ đời trước gây ra. Nếu đời trước hành động thiện nhiều thì đời nay ta sanh ra gặp hoàn cảnh tốt, mọi việc như ý. Nếu đời trước hành động ác thì đời này ta sanh ra trong hoàn cảnh xấu xa bất như ý. Thế là, hiện nay ta sanh ra trong hoàn cảnh tốt hay xấu đều do hành động tốt xấu của ta đời trước chiêu cảm. Ta là chủ nhân sắp đặt lấy cuộc sống hiện tại cho mình. Quyền tối thượng định đoạt là ở chúng ta, không ai khác. Kinh nhân quả nói: “Muốn biết nhân đời trước, chỉ xem quả hiện tại đang thọ; muốn biết quả đời sau, chỉ xem nhân gây tạo trong đời này.” (Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị; yếu tri hậu thế quả, kim sanh tác giả thị.)
+ Nghiệp thì biến chuyển, bởi vì nghiệp do hành động mà có, khi xưa ta hành động theo ngu tối nên chiêu cảm quả khổ, nay đổi lại ta hành động theo tâm hồn trong sáng thì quả khổ cũng suy giảm. Như trước ta xử sự xấu với một người bạn, gây ra sự buồn phiền hờn giận, nay ta hối cải xử sự tốt với bạn, sự hờn giận trước dần dần suy giảm. Hành động luôn luôn thay đổi, nghiệp cũng theo đó mà đổi thay. Nói nghiệp không phải cái cố định cứng ngắc, mà chuyển biến linh động tùy thuộc tâm tư và hành động con người. Vì thế, nếu trong hiện tại chúng ta cảm thọ cảnh vui hay khổ, biết do nghiệp lành hay dữ trước kia tạo nên. Nếu hiện nay chúng ta chuyển tâm niệm hành động thì sự cảm thọ cũng theo đó mà chuyển.
+ Nghiệp chuyển được, song đòi hỏi giàu ý chí, đủ nghị lực. Nói nghiệp là sửa đổi, cố gắng tích cực chớ không có nghĩa cam chịu đầu hàng.
+ Nghiệp báo không thật: Thật sự, nợ đã vay thì phải trả, chỉ khác ở chỗ mê thì thấy thật, ngộ thì thấy không thật. Ðã không thật thì trả cũng như không trả. Vì thế, nói “liễu tức nghiệp chướng bản lai không”. Cứu kính thấy nghiệp báo không thật, quả là thấu tột bản chất của nghiệp báo. Tuy không thật mà chẳng mất, đây là bí yếu của đạo Phật.

37.   PHẬT LÀ GÌ?
+ Ngài biết rõ nguyên nhân và thành quả của sanh tử, biết rõ nguyên nhân và thành quả của giải thoát sanh tử, đồng thời Ngài cũng biết rõ sự sanh thành và hoại diệt của mọi sự vật. Cũng gọi sự giác ngộ ấy là “Trí biết tất cả loại” (Nhất thiết chủng trí). Chính trí tuệ này, Ngài đã được viên mãn và cũng đem nó giáo hóa chúng sanh khiến tất cả đều được viên mãn, nên gọi là Phật.
+ Phật chỉ nguyên nhân đưa con người vào đường sanh tử và manh mối giải thoát sanh tử một cách rõ ràng, là mười hai nhân duyên: vô minh duyên hành… cho đến sanh duyên lão tử. Ðây là vòng tròn nối tiếp triền miên trong sanh tử. Muốn giải thoát sanh tử, tức là: vô minh diệt thì hành diệt… cho đến sanh diệt thì lão tử diệt. Thế là vòng sanh tử rã rời. Nhìn vào mười hai nhân duyên, chúng ta thấy vô minh là chủ động cuộc sanh tử, tiêu diệt vô minh là giải thoát sanh tử. Thế thì, vô minh là đầu mối sanh tử, tiêu diệt vô minh là đầu mối giải thoát sanh tử. Ðầu mối còn thì chi mạt ngọn ngành tiếp nối sanh trưởng, đầu mối diệt thì chi mạt ngọn ngành theo đó hết sạch.
+ Vô minh là gì mà có khả năng mãnh liệt như thế? Vô minh là không sáng, là mê lầm. Ngay nơi cuộc sống này, mà không biết cái nào là giả dối, không nhận ra cái nào là chân thật, là vô minh. Giả không biết, thật không hay, quả tang là kẻ mê lầm. Ðức Phật biết rõ những cái nào là giả dối, nhận chân cái chân thật, nên gọi là Người Giác Ngộ. Ðược giác ngộ thì không còn vô minh, nên giải thoát sanh tử, đồng thời cũng có đầy đủ mọi diệu dụng mà người đời không thể biết hết, nên nói “giải thoát bất tư nghì”. Thế là, Ngài đã đạt được bản hoài trước khi phát nguyện đi tu. Cũng chính là cái thành quả viên mãn của bao nhiêu năm Ngài khổ công đeo đuổi.

38.   THẾ NÀO LÀ PHẬT PHÁP?
+ Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầm và giác ngộ như Ngài.
+ Nhân quả là dòng biến động sanh diệt tiếp nối, nên nó là hiện thân của Vô thường.
+ Không một sự vật, sự việc nào không phải duyên hợp lại mà thành.
+ Chân lý phổ biến: Vạn vật do hợp thể mà có, hư giả không thật, lại mê chấp lầm là thật, vì chấp thật nên theo đó có yêu ghét và tham sân. Đó là nguyên nhân luân hồi. Biết rõ điều này, hành giả dứt mê lầm, chuyển mê thành trí tuệ.
+ Chân lý tương đối: Sự thật còn nằm trong đối đãi, đối trị. Sáng tối, Nóng lạnh, Khổ vui, Si mê và Trí tuệ, Tham tiền và Bố thí, Tham dục và Quán bất tịnh, Tham danh, ngủ nghỉ và Quán vô thường, Sân hận dùng Quán từ bi, nhẫn nhục, hỷ xả; (Đoạn này vô cùng hay)
+ Sân hận dùng pháp “quán từ bi” hạnh “nhẫn nhục” và “hỷ xả”, trị nó. Sân là nóng giận, hận là hờn phiền. Nóng giận muốn la rầy đánh đập cho đã cơn giận, khiến người phải đau khổ. Bởi vì khi giận thì không thương, lúc thương thì không giận. Từ bi là hằng đem lòng thương chan rải khắp mọi người, xem sự vui khổ của người như sự vui khổ của chính bản thân mình. Thương người như mình, còn lòng nào hại người đau khổ. Tay trái lỡ đập tay phải đau điếng, tay phải cam nhịn chịu không đập lại, vì biết cùng một thân mình. Lòng thương xem người như mình, dù bị người làm đau khổ mấy cũng nhịn chịu, không nóng giận hại lại. Nhẫn nhục là nhịn chịu. Khi cơn nóng nổi lên cố gắng dằn ép xuống, để giữ bình tĩnh và nhịn chịu cho qua. Bởi đè ép nên chỉ là phương tiện tạm thời không thể hết gốc nóng giận. Chỉ có quán từ bi thành công thì gốc nóng giận mới tiêu. Hờn phiền là lòng còn ôm ấp những mối bất bình. Hỷ xả là vui vẻ buông bỏ hết, khiến lòng nhẹ nhàng thơi thới. Ôm lòng hờn phiền là gốc bệnh hoạn khổ đau, vui vẻ buông bỏ hết thì lòng vui tươi an ổn, bệnh hoạn khổ đau không có lý do gì tồn tại.
 Khổ từ ngoại cảnh, khổ nơi bản thân, khổ của nội tâm, chúng ta khéo lấy sự an vui đối trị. Vui no ấm, vui khỏe mạnh, vui sáng suốt, vui hết tham lam, vui không nóng giận… trị lành các bệnh khổ ở trên. Khổ là thành quả xấu do nhơn duyên xấu tạo nên. Khổ về vật chất và thể xác, do nhơn duyên thiếu thốn hoặc phản nghịch của vật chất gây nên. Khổ về tinh thần, do nhơn duyên si, tham, sân… chủ động. Si là không biết đúng lẽ thật nên sanh tham, tham không được như ý nên nổi sân. Ba thứ này là nhơn chánh tạo nên quả khổ. Quả khổ là khổ đế, nhơn duyên tạo nên nó là tập đế. Biết rõ nguyên nhơn và các duyên rồi, dùng Phật pháp đối trị là đạo đế. Khi mọi nhơn duyên gây đau khổ dứt sạch, gọi là diệt đế. Đây là bốn lẽ thật (Tứ đế) nằm trong pháp đối đãi và đối trị.
+ Động đối tịnh: Tâm thức xao xuyến rối loạn khiến suy yếu, mờ tối. Lấy giới, lấy thiền để trị.
+ Sanh diệt đối vô sanh: Luyến ái là nguồn của sanh diệt, Dứt luyến ái thì vô sanh. Quán pháp vô thường, quán tâm vô ngã.
+ Chân lý tuyệt đối: Vô minh vọng tưởng làm đau khổ, bản tâm chân thật cần phải để sáng bừng, làm sống dậy, để có an lạc lâu dài, mãi mãi.
+ Quên mình chạy theo cảnh là thấy biết của chúng sanh. Nhân cảnh nhận được tánh chân thường của mình là cái thấy biết của Phật. Tri kiến Phật. Không biết mình là mê, nhận ra bản lai diện mục, bản chất thật sự đẹp đẽ của mình gọi là giác. Chuyển mê khai ngộ cho chúng sanh gọi là bản hoài của Phật.
+ Biết cảnh trần giả dối không chạy theo, là sống trở về tánh chân thật tuyệt đối của mình. Đó là pháp môn Bất nhị trong kinh Duy ma cật.
+ Chỉ tâm khi nào tỉnh táo sáng suốt mà không thấy động, mới thật là TÂM BÌNH THƯỜNG. Tâm bình thường không tướng mạo, không hình dáng, thể nó thênh thang rỗng rang đồng với hư không. Thấy được tâm thể này là người đạt đạo.
+ Ném phắt mọi vọng tưởng cuồng loạn, chỉ sống với tâm thể an nhiên trong mọi hoạt động bình thường là chúng ta đạt đạo, ngộ tâm yếu.
+ Tâm thể chúng ta cũng thế, chỉ cần lặng hết mọi vọng tưởng thì thể tánh hiển bày. Thế nên vừa suy nghĩ là lấp mất thể tánh rồi.
+ Tâm yếu luôn luôn hiển lộ đầy đủ nơi sáu căn, mà chúng ta không nhận thấy. Chúng tamột bề buông thả sáu cân chạy theo sáu trần. Mắt đối sắc cho là có thấy, sắc trần qua mất nói là không thấy, lệ thuộc hẳn ngoại cảnh. Sắc trần là tướng sanh diệt chợt có chợt không, cái thấy biết sắc trần có khi nào sanh diệt, mà chúng ta chỉ nhận sắc trần không nhận cái thấy. Cái thấy là hiện thân của tâm yếu, là mạng sống ngàn đời của chúng ta. Thế mà, chúng ta quên đi mạng sống của chính mình, phóng tâm đuổi theo dòng Sanh diệt của ngoại giới.
+ Vì thế, mục đích duy nhất của Phật, Tổ là chỉ cho chúng ta nhận ra ông chủ. Ông chủ ấy hằng có mặt nơi tai, mắt... chúng ta, chỉ khéo nhận liền thấy.
+ Vì có thấy là có biết, cái biết không do suy nghĩ, không do phân biệt, mới là cái biết chơn thật, thoát ngoài đối đãi sanh diệt. Cái biết do suy nghĩ, do phân biệt đều là động, tạm có rồi không, làm sao nói chơn thật được. Cái suy nghĩ phân biệt lặng xuống, tánh giác tri hiện bày rỡ rỡ, đó mới thật là ông chủ muôn đời của ta. Giác tri mà lặng lẽ thì làm gì có sanh diệt. Chỗ này còn nghi ngờ gì, không nói nó chơn thật vĩnh cửu. Thế nên, mắt thấy sắc tướng mà nhận được tánh thấy của mình, là ngộ đạo, trái lại là mê.
+ Khi vọng tưởng đã lặng sạch, chỉ còn một tâm thể linh minh, không hình dáng tướng mạo, nên ứng dụng vô cùng. Đến chỗ này gọi là "diệu dụng không thể nghĩ bàn". Bởi diệu dụng không thể nghĩ bàn, nên dụ là Bảo Châu Như Ý. Nắm hạt châu này trong tay thì mọi việc đều như ý, tức là mãn nguyện tự tại. Một bên công dụng tầm thường cuộc hạn, một bên diệu dụng không thể nghĩ bàn tự do tự tại, đối chiếu nhau chúng ta thấy rõ giá trị sai biệt của đôi bên rồi.
Chơn lý tuyệt đối không có ở bên ngoài, mà nằm sẵn ngay nơi chúng ta. Chúng ta muốn tìm nó, phải biết quay lại mình, dừng chạy ra ngoài tìm kiếm vô ích. Chân lý tuyệt đối nơi mình chính là ông chủ của mình, nhận ra ông chủ thì mọi chân lý trong vũ trụ đều thấy rõ. Nhận ra và sống được với ông chủ của mình thì vòng luân hồi chấm dứt, mọi khổ đau hết sạch, được giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
+ Linh tri thường trực thì sẽ có phản ứng nhanh nhẹn. Chính chân lý tuyệt đối này giúp một chúng sinh từ phàm trở thành thánh.

39.   HỌC PHẬT BẰNG CÁCH NÀO?
+ Văn tư tu

40.   LÀM SAO TU THEO PHẬT?
+ Tu còn luân hồi, Tu dừng nghiệp, Tu chuyển nghiệp, Tu giải thoát.
+ Tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tọa thiền,… đều nhắm thẳng chặn đứng ý nghiệp.
+ Không loạn tưởng, không xao động, nhất tâm, tâm lặng lẽ, đều là trạng thái dừng lặng của ý nghiệp.
+ 8 ĐIỀU CỐT LÕI ĐỂ NHẬN BIẾT MÌNH TU ĐÃ ĐẠT CHƯA
Thành quả của lối tu này, không phải được thần thông mầu nhiệm, biến hóa tự tại, mà quí ở chỗ tám gió (bát phong) thổi chẳng động. Tám gió là:
Lợi - Được tài lợi tâm không xao xuyến.
Suy - Gặp suy hao lòng vẫn thản nhiên.
Hủy - Bị hủy nhục lòng không bực tức.
Dự - Được công kênh tâm vẫn như không.
Xưng -Được ngợi khen tâm vẫn bình thản.
Cơ - Bị chê bai lòng không biến đổi.
Khổ - Gặp đau khổ lòng vẫn an nhiên.
Lạc - Được việc vui tâm không xao động.
Cho đến, dù đối đầu với hoàn cảnh nào, gặp việc khó khăn gì, tâm vẫn như như bất động, đây là thành công viên mãn của người tu thiền.

0 / 5 (0Bình chọn)
Bình luận
Gửi bình luận
Bình luận